Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong bối cảnh mới
Sau gần 2 năm từ khi xuất hiện Đại dịch COVID-19, đặc biệt với làn sóng COVID lần thứ tư và sự lây lan nhanh của biến thể Delta khiến nhiều địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội trong thời gian dài đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp.
Doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiếp cận khách hàng, đầu ra sản phẩm, nhân công và chuỗi cung ứng bị gián đoạn dẫn đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp bị ngưng trệ, thậm chí dừng hoạt động và đứng trước bờ vực phá sản, rút lui khỏi thị trường. Bài viết đưa ra một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó và phục hồi sản xuất trong bối cảnh đại dịch COVID-19 còn diễn biến phức tạp.
Mở đầu
Năm 2021, với sự bùng phát mạnh của làn sóng COVID-19 lần thứ tư, cùng với các đợt phong tỏa nghiêm ngặt, giãn cách kéo dài tại nhiều địa phương để phòng chống dịch bệnh đã gây ảnh hưởng nặng nền đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp (DN) và nền kinh tế.
Đa số DN gặp khó khăn trong lưu thông hàng hóa, nguồn cung ứng nguyên liệu thiếu hụt, chuỗi cung ứng bị đứt gãy, đơn hàng bị giảm sút, nhân công bị thiếu hụt, phải trì hoãn hoặc giãn tiến độ đầu tư thậm chí huỷ dự án đang hoặc sẽ thực hiện.
DN cũng phát sinh thêm chi phí phòng ngừa dịch COVID-19, dẫn tới giảm doanh thu cũng như vấp phải những rủi ro về thu hồi nợ, mất khả năng thanh toán. Nhiều DN không đủ khả năng phải tạm dừng hoạt động và đứng trước bờ vực phá sản dẫn tới hàng loạt lao động bị mất việc làm, đời sống xã hội bị đảo lộn.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong năm 2021 có gần 160 nghìn DN gia nhập và tái gia nhập thị trường, giảm 10,7% so với năm 2020; 119,8 nghìn DN rút lui khỏi thị trường, tăng 17,8% so với năm 2020, trung bình mỗi tháng có 10 nghìn DN rút khỏi thị trường. Để hướng đến hồi phục và phát triển nền kinh tế một cách bền vững trong bối cảnh "sống chung với COVID-19" thì cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để đảm bảo phòng chống dịch COVID-19 nhưng phải gắn với khôi phục, phát triển sản xuất trong trạng thái bình thường mới, đó là "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19".
Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của các DN năm 2021 cho thấy, các DN phải đương đầu với nhiều khó khăn và số DN không còn khả năng chịu đựng nên phải giải thể hoặc tạm ngưng hoạt động tăng trong khi số DN thành lập mới bị giảm so với năm trước.
Tính chung cả năm 2021, hiện có 116,8 nghìn DN đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.611,1 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký gần 854 nghìn lao động, đem so sánh với năm 2020 thì tỷ lệ giảm tương đương 13,4% về số DN, giảm 27,9% về vốn đăng ký và giảm 18,1% về số lao động. Vốn đăng ký bình quân một DN thành lập mới trong năm 2021 đạt 13,8 tỷ đồng, giảm 16,8% so với năm trước.
Nếu tính cả 2.524,9 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 43,5 nghìn DN tăng vốn, tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong năm nay là 4.136 nghìn tỷ đồng, giảm 25,8% so với năm trước. Bên cạnh đó, còn có 43,1 nghìn DN quay trở lại hoạt động (giảm 2,2% so với năm 2020), nâng tổng số DN thành lập mới và DN quay trở lại hoạt động năm 2021 lên gần 160 nghìn DN, giảm 10,7% so với năm trước.
Bình quân một tháng có 13,3 nghìn DN thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số DN tạm ngừng kinh doanh có thời hạn gần 55 nghìn DN, tăng 18% so với năm trước; 48,1 nghìn DN ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 27,8%; 16,7 nghìn DN hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 4,1% so với năm trước (Bảng 1).
Nếu tính chung cả số DN thành lập mới và số DN quay trở lại hoạt động thì tổng số DN đang hoạt động là 160 nghìn DN, giảm 10,7% so với năm trước, bình quân một tháng có 13,3 nghìn DN thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Với 119,8 nghìn DN rút khỏi thị trường, tăng 17,8% cùng kỳ năm trước, bình quân một tháng có 10 nghìn DN rút lui khỏi thị trường (Hình 1).
Phân theo lĩnh vực hoạt động, trong năm 2021 có 15 nghìn DN thành lập mới thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, giảm 10% so với năm trước; 14,3 nghìn DN thuộc lĩnh vực xây dựng, giảm 16%; 40,2 nghìn DN thuộc khu vực bán buôn bán lẻ, giám 9,7% và giảm nhiều nhất là DN thuộc lĩnh vực sản xuất phân phối và lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống, với tỷ lệ giảm tương ứng là 79,2% và 25,6%… (Bảng 2).
Một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp và cả xã hội đang dần thích nghi với trạng thái "bình thường mới", việc có những giải pháp hỗ trợ hoạt động sản xuất sau thời gian dài bị đình trệ là động lực để DN tiếp đà khôi phục và phát triển.
Những chính sách, giải pháp đã ban hành có sự kết hợp giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách hỗ trợ ngành, lĩnh vực hoặc an sinh xã hội khác. Việc thực hiện hài hòa và đồng bộ các giải pháp này giúp tháo gỡ khó khăn và tiếp tục phát triển cho DN, góp phần cho tăng trưởng kinh tế vĩ mô, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động, đảm bảo hài hòa lợi ích của DN, người dân và xã hội góp phần ổn định an ninh xã hội.
Việc Chính phủ ban hành và triển khai kịp thời Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19” trên phạm vi toàn quốc đã góp phần quan trọng trong khôi phục sản xuất và thúc đẩy thị trường, từng bước tạo niềm tin cho các doanh nghiệp. Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy doanh nghiệp lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý I/2022 với 81,7% doanh nghiệp đánh giá sẽ ổn định và tốt hơn so với quý IV/2021.
Linh hoạt các giải pháp để đảm bảo vừa phòng chống dịch an toàn, nhưng vẫn duy trì an toàn hoạt động sản xuất là cách tiếp cận và xu hướng chung của đa phần các quốc gia trên thế giới, được người dân và cộng đồng DN đánh giá cao. Theo đó, một số giải pháp hỗ trợ DN trong phục hồi và phát triển sản xuất cần được tập trung thực hiện trong thời gian tới gồm:
Thứ nhất, đảm bảo kiểm soát được dịch bệnh nhưng không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.
Để phục hồi, duy trì và phát triển sản xuất cho DN trong điều kiện “bình thường mới”, cần thay đổi cách tiếp cận và tư duy trong phòng chống dịch COVID-19, phải xác định sống chung lâu dài với dịch COVID-19, không thể khống chế tuyệt đối dịch bệnh, phải thích ứng và có cách làm phù hợp. Cụ thể:
- Cần ban hành quy tắc phân loại phòng chống dịch COVID-19 và thống nhất triển khai từ Trung ương đến địa phương, tránh tình trạng địa phương hóa quá mức, gây cản trở hoạt động của DN; thống nhất các quy định chung trong cả nước về tiêm chủng, xét nghiệm, khai báo y tế, cấp luồng xanh, chứng chỉ xanh... nhằm đảm bảo tính chính thống, nhanh chóng, thuận lợi, an toàn cho DN; Đánh giá đầy đủ tính khả thi, hiệu quả của các mô hình “một con đường, hai điểm đến”, “một cung đường, các điểm đến”, “ba tại chỗ”; sản xuất an toàn theo nguyên tắc “4 xanh: lao động xanh, khu trọ xanh, phương tiện vận chuyển xanh, phân xưởng xanh” và các biện pháp hỗ trợ DN thực hiện các mô hình này trong thời gian tới.
- Xây dựng kế hoạch tiêm vắc xin đảm bảo an toàn và kịp thời; chuẩn bị nguồn vắc xin đảm bảo đủ độ bao phủ trong toàn dân để tạo miễn dịch cộng động, ưu tiên tiêm mũi nhắc lại thứ 3 cho công nhân, lao động tại các Khu công nghiệp, Khu chế xuất, các DN thương mại, dịch vụ, các DN vận tải và logistics có tham gia chuỗi cung ứng hàng hóa.
- Tăng cường kiểm soát tình hình dịch bệnh tại khu công nghiệp; khuyến khích DN thực hiện việc tự mua và tiêm vắc xin cho công nhân, lao động tại DN của mình theo đúng quy định của Bộ Y tế; đồng thời hoàn chỉnh phương án phòng, chống dịch để không làm đứt gẫy chuỗi cung ứng, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khôi phục lưu thông hàng hóa để huyết mạch của nền kinh tế không bị tắc nghẽn.
- Điều chỉnh việc truy vết F0, trên cơ sở lấy mẫu xét nghiệm truy vết F0, số ca nhiễm để xác định “vùng xanh”, vùng cam”, “vùng đỏ” và áp dụng các biện pháp giãn cách ở các cấp độ khác nhau; chỉ nên phân khu vực theo cấp độ an toàn ở quy mô diện tích nhỏ theo khu/cụm dân cư sau khi đã khuôn hẹp được phạm vi nguồn lây, không nên áp dụng chính sách giãn cách xã hội với địa bàn rộng trong thời gian kéo dài, gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của DN, lưu thông hàng hóa của nền kinh tế và đời sống của nhân dân.
Thứ hai, hỗ trợ DN tháo gỡ khó khăn để ổn định hoạt động sản xuất, kinh doanh.
- Để đảm bảo ổn định sản xuất, lưu thông hàng hóa và nguồn nguyên vật liệu đầu vào cho DN sản xuất, tránh tình trạng gián đoạn chuỗi cung ứng, cần có các quy định thống nhất từ Trung ương và sự đồng thuận của các địa phương trong kiểm tra, giám sát vận tải hàng hóa tại các điểm hàng, điểm đi, điểm đến, không kiểm tra dọc đường đối với các phương tiện đã được cấp mã QRCode. Cần có những chế tài đủ mạnh để kiểm soát, phạt nặng đối với các tổ chức, cá nhân (thậm chí rút giấy phép đối với tổ chức, xử lý hình sự đối với cá nhân) lợi dụng “luồng xanh” vi phạm quy định phòng chống dịch COVID-19; xử lý kịp thời các bộ, ngành, chính quyền địa phương, cán bộ không tuân thủ chỉ đạo của Chính phủ, gây ách tắc lưu thông hàng hóa, nhất là ở các tuyến hàng hóa đi xuyên qua các tỉnh.
Với mặt hàng có tính đặc thù mùa vụ như nông - thủy sản, để đảm bảo nguồn cung nguyên liệu nông - thủy sản cho các DN chế biến xuất khẩu, cần đặc biệt lưu ý tính kịp thời khi đến vụ thu hoạch, thời gian bảo quản của nguồn nguyên liệu để đảm bảo duy trì hoạt động sản xuất của DN chế biến nông - thủy sản, đảm bảo kịp thời cung cấp hàng xuất khẩu theo chuỗi cung ứng toàn cầu trong bối cảnh nhu cầu hàng hóa nông - thủy sản ở nhiều thị trường nhập khẩu đang có tín hiệu gia tăng.
- Cải thiện môi trường kinh doanh đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, thông thoáng, minh bạch, thuận lợi. Trong thời gian qua, các Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ đã được thành lập nhằm tháo gỡ khó khăn cho DN bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19, Tổ công tác phản ứng nhanh hỗ trợ DN của các địa phương cũng cần có hành động quyết liệt hơn thể hiện sự sẵn sàng đồng hành của chính quyền, hỗ trợ và tạo điều kiện tối đa trong quá trình khôi phục và duy trì hoạt động sản xuất của DN thông qua việc sẵn sàng đối thoại, tiếp nhận ý kiến, “phản ứng nhanh” chính sách, kịp thời tháo gỡ các khó khăn của DN, nhằm tạo sự yên tâm và niềm tin của các nhà đầu tư (nhất là để các nhà đầu tư nước ngoài khôi phục, duy trì và mở rộng quy mô sản xuất tại Việt Nam, không chuyển vốn, dây chuyền sản xuất, nhà máy, công xưởng ra khỏi Việt Nam). Với việc khôi phục hoạt động sản xuất trở lại bình thường, các đơn hàng sẽ trở lại Việt Nam, tránh tình trạng đứt gãy các chuỗi cung ứng, là nguyên nhân làm đình trệ sản xuất kinh doanh của DN.
Thứ ba, triển khai đồng bộ các chính sách hỗ trợ cắt giảm chi phí đầu vào và cung cấp các gói tín dụng ưu đãi cho DN.
Theo kết quả khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI và World Bank, 2021), ba chính sách được các DN đánh giá cao nhất về tính hữu ích để hỗ trợ hoạt động của DN ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 là gia hạn đóng thuế giá trị gia tăng (VAT), gia hạn đóng thuế TNDN và gia hạn nộp tiền thuê đất. Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế cần xem xét, tính toán miễn giảm, gia hạn nộp thuế thu nhập DN, cho các DN chịu tác động tiêu cực của dịch bệnh COVID-19 theo đúng đối tượng, giai đoạn phù hợp; giảm thuế VAT đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19 và mở rộng đối tượng được gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất.
Cần nghiên cứu giảm hoặc gia hạn các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội và phí công đoàn. Đối với bảo hiểm y tế, cần linh hoạt cho phép DN có thể mua bảo hiểm y tế riêng lẻ cho người lao động trong thời gian tạm hoãn hợp đồng lao động. Hỗ trợ kinh phí xét nghiệm cho DN; mở rộng đối tượng được giảm tiền điện và giảm giá điện để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh; xem xét chính sách hỗ trợ về mặt bằng sản xuất, kinh doanh; miễn phí bảo trì đường bộ....
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần tính toán điều chỉnh chính sách lãi suất, cho phép cơ cấu lại những khoản vay, tiếp tục giãn nợ, giảm, miễn một số loại thuế, phí, lệ phí, miễn và giãn thời gian áp dụng một số quy định gia tăng chi phí cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, giảm lãi suất cho vay, cho vay mới, bổ sung vốn lưu động để giúp DN khôi phục hoạt động sản xuất, kinh doanh; Cung cấp nhiều gói tín dụng ưu đãi đa dạng, bảo đảm dòng tiền, khả năng thanh khoản và tạo điều kiện thuận lợi hơn về thủ tục tiếp cận vốn vay cho các DN. Đặc biệt, đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân các dự án đầu tư công; sớm kích hoạt các gói hỗ trợ DN.
Trong giai đoạn phục hồi, các chính sách hỗ trợ nên xem xét, chọn lọc, tập trung hơn vào các DN quy mô lớn, có ảnh hưởng lan tỏa quan trọng đến các khu vực khác trong nền kinh tế. Không hỗ trợ dàn trải, bình quân, liều lượng hỗ trợ thấp mà cần lựa chọn, tập trung vào những ngành, lĩnh vực mang tính “dẫn dắt”, đối tượng, khu vực đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước, tạo lượng lớn việc làm cho người lao động, có tác động lan tỏa, lâu dài, đang tạo nên dư địa tăng trưởng mới cho nền kinh tế, kịp thời đón đầu nhu cầu của thế giới đang dần mở cửa sau đại dịch thay vì dàn trải nguồn lực.
Bốn là, tăng cường chính sách an ninh việc làm.
Tác động mạnh của đại dịch COVID-19 đã dẫn đến có sự dịch chuyển lớn lao động từ thành thị về nông thôn, từ các trung tâm kinh tế lớn về các tỉnh, dẫn đến tình trạng đứt gãy nguồn cung lao động ngay khi DN quay lại, ảnh hưởng đến phục hồi sản xuất của các DN. Để DN sớm khôi phục lại hoạt động sản xuất cần:
- Tập trung hỗ trợ lao động ngoại tỉnh quay trở lại làm việc tại các DN thuộc vùng kinh tế trọng điểm, các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao yên tâm làm việc, tham gia phục hồi sản xuất kinh doanh; phương án hỗ trợ người lao động quay lại nơi làm việc, bao gồm không chỉ nỗ lực kết nối cung - cầu lao động, mà còn là việc kiến tạo các động lực về cơ hội, hỗ trợ tài chính, ổn định cuộc sống tại các địa bàn có nhu cầu lao động lớn, tạo sinh kế cho người lao động tìm việc làm tăng thu nhập bảo đảm cuộc sống, cũng như một số các biện pháp tuyên truyền, hướng dẫn về bảo vệ sức khỏe phù hợp, giúp tạo tâm lý yên tâm quay trở lại làm việc cho người lao động.
- Hỗ trợ DN tuyển dụng lao động thông qua trung tâm dịch vụ việc làm bằng việc nâng cao vai trò, hiệu quả của các trung tâm dịch vụ việc làm trên cả nước; xây dựng cổng thông tin cung cấp thông tin thị trường lao động, tổ chức các phiên giao dịch việc làm trực tuyến kết nối lao động và DN giữa nhiều địa phương với nhau; xây dựng chương trình phối hợp giữa các địa phương trong việc cung ứng và tuyển dụng lao động để tạo sự kết nối, liên thông trong chuỗi cung ứng lao động giữa các địa phương. Trong giai đoạn phục hồi sản xuất có chính sách hỗ trợ miễn, giảm chi phí tuyển dụng lao động.
- Thúc đẩy các chính sách hỗ trợ nhà ở cho công nhân, người lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, nhằm ổn định đời sống, yên tâm cho người lao động, từ đó thu hút lao động đến làm việc; chú trọng vấn đề an ninh, trật tự, tránh những bất ổn về xã hội; tạo điều kiện thuận lợi nhưng đảm bảo an toàn trong phòng chống dịch Covid-19 nhằm sớm thu hút chuyên gia, nguồn nhân lực chất lượng cao quay trở lại làm việc tại các DN.
- Tạo điều kiện cho DN trong các quy định về thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, số giờ làm thêm trong một tháng (Tổng số giờ làm thêm hiện không quá 300 giờ/năm không giới hạn nhóm, ngành, nghề, công việc) khi DN và người lao động có thỏa thuận làm thêm với một số ngành, nghề công việc trong những giai đoạn nhất định để tránh ảnh hưởng đến sự tham gia vào chuỗi cung ứng hàng hóa.
Năm là, đẩy mạnh hỗ trợ DN chuyển đổi số.
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030". Bộ Kế hoạch và Đầu tư triển khai Chương trình Hỗ trợ DN Chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025. Cần đẩy mạnh triển khai các hoạt động hỗ trợ DN chuyển đổi số, tái cấu trúc DN và đổi mới mô hình sản xuất kinh doanh gắn với chuyển đổi số; đầu tư hơn nữa cho công nghệ, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ để biến thách thức thành cơ hội; tạo chuẩn giá trị mới, quan tâm hơn đến phục vụ người dân và nhu cầu thị trường trong nước; mở rộng thị trường, tiến tới tham gia vào chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu; thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, vườn ươm DN, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ, du lịch, thương mại, nông nghiệp, chế biến, chế tạo…; chú trọng hỗ trợ, khuyến khích phát triển DN vừa và nhỏ, DN công nghiệp, hỗ trợ, dịch vụ…
Tài liệu tham khảo:
Ban chấp hành Trung ương (2021), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Hà Nội năm 2021;
Chính phủ, Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 9/4/2020 về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại chịch COVID-19;
Chính phủ, Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 29/4/2020 về các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại chịch COVID-19;
Chính phủ, Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 09/9/2021 về hỗ trợ DN, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch COVID-19;
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và World Bank (2021), Tác động của dịch bệnh COVID-19 đối với DN Việt Nam: Một số phát hiện chính từ Điều tra DN năm 2020, Hà Nội năm 2021.
Tổng cục Thống kê: https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke
(*)TS. Đỗ Diệu Hương Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học – xã hội Việt Nam.
(**) Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1+2 tháng 02/2022.