Giới hạn 49% đầu tư nước ngoài vào Fintech: Việt Nam có thể bị kiện
Quy định giới hạn đầu tư nước ngoài tối đa 49% vào các công ty trung gian thanh toán không chỉ gây khó khăn cho Fintech khi gọi vốn đầu tư, mà còn có thể dễ dẫn đến nguy cơ bị khiếu kiện.
Hiện tại, Việt Nam đang xem xét hạn chế quyền sở hữu nước ngoài trong các công ty trung gian thanh toán. Đáng lưu ý, trong dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 (Nghị định số 101), Ngân hàng Nhà nước có đề tỷ lệ sở hữu nước ngoài là 49% đối với tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.
Nhà đầu tư nản lòng
Theo tờ trình Dự thảo, “giới hạn đối với vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài ở mức 49% sẽ giúp thu hút đầu tư nước ngoài trong khi vẫn đảm bảo được vai trò chủ động của các doanh nghiệp trong nước, tránh sự thao túng của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này, đảm bảo an ninh, an toàn cho hoạt động ngân hàng-tài chính, chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng”.
Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ trên phương diện thị trường, giới hạn sở hữu nước ngoài có thể tạo ra rào cản bất lợi đối với nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào doanh nghiệp dịch vụ trung gian thanh toán tại Việt Nam.
Nói như bà Virgina Foote, đại diện AmCham Việt Nam, đồng chủ tịch của Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF) việc giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài sẽ làm hạn chế nghiêm trọng khả năng phát triển của ngành Fintech Việt Nam, đặc biệt khi các doanh nghiệp trong ngành cần phát triển dựa trên công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) từ các quốc gia đi trước, từ đó hạn chế khả năng thu hút nhân tài và khiến họ kém cạnh tranh hơn so với các doanh nghiệp khác trong khu vực.
Đồng quan điểm, luật sư Phùng Anh Tuấn, Phó chủ tịch, Tổng Thư kí Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính (VAFI), Giám đốc Công ty Luật VCI Legal cho rằng: Hiện nay trung gian thanh toán ước tính chiếm đến 90% hoạt động và giá trị của Fintech, nên hạn chế đầu tư nước ngoài sẽ có ảnh hưởng đến toàn bộ lĩnh vực Fintech.
“Giới hạn Ngân hàng Nhà nước đưa để xuất nhằm mục đích ổn định và an toàn trong chính sách tiền tệ của quốc gia, tránh sự thao túng của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như để đảm bảo chủ quyền quốc gia trong hoạt động ngân hàng tài chính, tạo điều kiện cho nhà đầu tư trong nước nắm bắt cơ hội. Nhưng, hiện nay Fintech rất cần vốn đầu tư nước ngoài để phát triển, từ đầu tư cho công nghệ, thị trường cho đến nhân lực. Vì vậy, việc hạn chế đầu tư nước ngoài sẽ kìm hãm sự phát triển của Fintech”, ông Tuấn nhấn mạnh.
Vi phạm cam kết quốc tế?
Không dừng lại ở việc cản trở doanh nghiệp phát triển nhiều chuyên gia cho rằng quy định giới hạn tỷ lệ phần trăm vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài ở mức 49% có thể không phù hợp với các cam kết mà Việt Nam đưa ra trong các Hiệp định Thương mại tự do.
Theo các Hiệp định Thương mại thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, Hiệp định Đầu tư song phương Nhật Bản-Việt Nam, Hiệp định Đầu tư song phương Singapore Việt Nam thì Việt Nam đều đưa ra cam kết mở cửa lĩnh vực tài chính – ngân hàng với phạm vi cam kết rất rộng, bao gồm tất cả các dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, cung cấp và chuyển giao thông tin tài chính, và xử lý dữ liệu tài chính và phần mềm liên quan bởi các nhà cung cấp các dịch vụ tài chính khác; tư vấn, trung gian, và các dịch vụ tài chính phụ trợ khác.
Mặt khác, mặc dù cơ quan soạn thảo cho rằng “trung gian thanh toán” không được thể hiện trong các lĩnh vực cam kết, tuy nhiên đây chỉ là một khái niệm pháp lý riêng của Việt Nam, còn về bản chất hoạt động này đã được bao gồm trong lĩnh vực được cam kết là dịch vụ thanh toán.
“Nếu Chính phủ hoặc nhà đầu tư nước ngoài khởi kiện, quyền diễn giải điều ước và áp dụng quy định sẽ thuộc về cơ quan tài phán hoặc trọng tài đầu tư, chứ không thuộc về phía Việt Nam. Nếu thua kiện, chúng ta có thể đối mặt với hậu quả tốn kém và dư luận tiêu cực. Do đó, cần cân nhắc nhiều giải pháp khác nhau để kiểm soát, theo dõi và ngăn chặn các hoạt động đầu tư không mong muốn cụ thể, thay vì áp đặt hạn chế trên toàn thị trường”, Luật sư Phùng Anh Tuấn nói.
Bài học từ Indonesia?
Theo Dự thảo Tờ trình Chính phủ kèm theo Nghị định, cơ quan soạn thảo đưa ra trường hợp hạn chế đầu tư nước ngoài của Indonesia để tham khảo. Tuy nhiên nhiều chuyên gia băn khoăn liệu đây có phải là tiền lệ tốt để Việt Nam tham khảo, vì trong nhiều lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ, Indonesia còn tụt hậu so với Việt Nam, trong khi Chính phủ đang đặt mục tiêu đưa nước ta vào Top 4 ASEAN về phát triển số.
Đồng thời, nội dung Tờ trình có viện dẫn luật Indonesia như là căn cứ lý giải cho việc Việt Nam ban hành quy định tương tự. Theo đó, Indonesia cũng áp dụng giới hạn sở hữu nước ngoài 20% đối với tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán và giới hạn sở hữu nước ngoài 49% đối với tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử.
Tuy nhiên, những lý lẽ mà ban soạn thảo đưa ra dường như chưa thuyết phục được nhà đầu tư. Nói như bà Virgina Foote, đại diện AmCham Việt Nam, đồng chủ tịch của Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF) thì pháp luật Indonesia, giới hạn sở hữu nước ngoài 20% đối với tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán chỉ áp dụng cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ chuyển mạch. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp dịch vụ trung gian thanh toán không cung cấp dịch vụ chuyển mạch sẽ không bị áp dụng hạn chế này.
Theo đại diện AmCham Việt Nam, hiện nay Việt Nam chỉ có NAPAS cung cấp dịch vụ chuyển mạch. Đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán và cung cấp dịch vụ ví điện tử, hạn chế theo luật Indonesia là 49%.
"Bên cạnh đó, giới hạn sở hữu nước ngoài theo luật Indonesia không áp dụng đối với tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đã được cấp phép trước khi luật có hiệu lực. điều này có nghĩa là các dịch vụ trung gian thanh toán đã được cấp phép có thể duy trì tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, nếu tham chiếu quy định của Indonesia để áp dụng cho Việt Nam thì các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán hiện tại cần được cho phép tiếp tục hoạt động kinh doanh mà không thanh đổi tỷ lệ sở hữu do quy định giới hạn sở hữu nước ngoài 49%", đại diện AmCham Việt Nam phân tích.