Hoàn thiện chất lượng báo cáo tài chính trong bối cảnh kinh tế số
Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp và nền kinh tế. Doanh nghiệp cần phát triển theo hướng gia tăng áp dụng công nghệ tài chính nhằm nâng cao chất lượng báo cáo tài chính và giảm thiểu rủi ro, sai sót trong quản trị. Việc nâng cao chất lượng báo cáo tài chính của doanh nghiệp cũng cần gắn với thúc đẩy phát triển bền vững về môi trường, xã hội và quản trị (ESG), gia tăng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp với cộng đồng.

Đặt vấn đề
Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đã và đang diễn ra nhanh chóng mang theo nhiều lợi ích cho các nền kinh tế. Cách mạng công nghệ gắn liền với ứng dụng của công nghệ tài chính, AI, Blockchain, thúc đẩy các hoạt động kinh tế số và làm gia tăng năng suất và hiệu quả của hoạt động kinh doanh, cải thiện hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế. CMCN cũng mang lại cơ hội cho các quốc gia đang phát triển như Việt Nam nhằm nắm bắt và đuổi kịp phát triển với các nền kinh tế khác. Do đó, gia tăng đóng góp hoạt động kinh tế số trong hoạt động kinh tế xã hội là vô cùng cấp thiết.
Việt Nam được đánh giá có mức độ phát triển kinh tế nhanh, kéo theo sự phát triển của phong trào tự kinh doanh, khởi nghiệp và có tác động qua lại. Kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển của doanh nghiệp (DN), ngược lại khi DN có sự mở rộng và phát triển sẽ kéo theo kinh tế phát triển. Theo Công Thương (2023), Việt Nam đặt mục tiêu có 1,5 triệu DN vào năm 2025, trong đó, 8.000 đến 10.000 hộ gia đình cá thể chuyển đổi thành DN.
Do đó, Chính phủ xác định mục tiêu hỗ trợ DN giúp gia tăng khả năng thích ứng, ứng phó trước các cú sốc trong nền kinh tế, tháo gỡ các rào cản, khó khăn, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi nhằm phát triển số lượng, chất lượng DN và từ đó giải phóng nguồn vốn đầu tư phát triển cho nền kinh tế. Trong đó, mục tiêu cụ thể khu vực DN đóng góp 65-70% GDP và khoảng 30-50% việc làm, 98-99% kim ngạch xuất khẩu; khoảng 35-40% số DN có hoạt động ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và 100% cơ sở kinh doanh, hợp tác xã và hộ gia đình nhận thức lợi ích của chuyển đổi số và thực hiện chuyển đổi số.
DN không thể thiếu sự tham gia của nguồn lực cộng đồng, nhà đầu tư. Nhà đầu tư có thể chuyển nguồn vốn nhàn rỗi qua trung gian tài chính và nguồn vốn này giúp cho DN có thể dễ dàng tiếp cận, hoặc nhà đầu tư có thể mua cổ phiếu, trái phiếu DN nhằm chuyển giao nguồn lực tài chính của họ cho DN thực hiện sản xuất kinh doanh.
Tuy vậy, để thúc đẩy được hoạt động này, DN cần gia tăng tính minh bạch, trách nhiệm giải trình, đặc biệt là hoàn thiện chất lượng đầu tư gắn liền với chất lượng quản lý sổ sách kế toán, chất lượng báo cáo tài chính (BCTC) nhằm cung cấp cho cộng đồng, xã hội và nhà đầu tư thông tin tình hình tài chính một cách chính xác nhất. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, chất lượng BCTC cải thiện có khả năng giúp DN có nhiều dư địa phát triển do DN trở nên hấp dẫn hơn và nhận được nhiều quan tâm hơn từ nhà đầu tư.
Kinh nghiệm hoàn thiện chất lượng báo cáo tài chính trong bối cảnh kinh tế số tại các nước
Kể từ khi thực hiện đổi mới vào năm 1977, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu nhất định trong phát triển kinh tế và trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới hiện nay. Nước này cũng đã xây dựng được nền tảng cơ sở hạ tầng, kỹ thuật cơ bản cho nền kinh tế với sự tham gia của DN nhà nước và DN tư nhân. Nhiều DN lớn tại Trung Quốc đã có thể tự tin thực hiện đầu tư ra nước ngoài.
Chen và cộng sự (2024) cho rằng, sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài với dòng vốn chiếm tới 20,2% tổng số của thế giới và đưa Trung Quốc là một trong các nền kinh tế có thế mạnh hơn trên trường quốc tế. Để gia tăng hơn hoạt động này, Trung Quốc đã thực hiện giải quyết các vấn đề liên quan tới công tác kế toán, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến thuế xuyên quốc gia khi liên tục kí kết các hiệp định thuế song phương với các nước. Theo Chen và cộng sự, hoạt động của DN có sự cải thiện rõ rệt khi các hiệp định thuế song phương cải thiện hơn chất lượng BCTC do có khả năng hạn chế hành vi trốn thuế của DN và đồng thời phát huy chức năng quản trị bằng cách hạn chế hành vi trốn thuế thông qua các thiên đường thuế. Hơn nữa, hiệp định song phương còn có khả năng ngăn chặn việc tránh thuế thông qua giảm các hành vi làm suy yếu vốn và tạo ra những đóng góp giá trị không thực tế, từ đó làm cải thiện chất lượng thông tin kế toán và cung cấp thêm những hiểu biết chính sách về quy định và bối cảnh quốc tế về chất lượng thông tin kế toán, đặc biệt bối cảnh kinh tế số giúp cho quá trình cải thiện chất lượng thông tin kế toán được hoàn thiện hơn.
Chất lượng BCTC có vai trò quan trọng duy trì tính hiệu quả trên thị trường tài chính do chất lượng BCTC có khả năng cung cấp cho những người tham gia thị trường đầy đủ thông tin tài chính để họ đưa ra quyết định. Tuy vậy, chất lượng BCTC có thể bị ảnh hưởng tùy theo bối cảnh kinh tế xã hội, Hsu và Yang (2022) cho rằng, chất lượng BCTC của nhiều DN giảm đi trong thời kỳ đại dịch COVID-19, các DN đã tham gia vào việc quản lý thu thập nhiều hơn thông qua các hoạt động thực tế trong đại dịch. Tuy vậy, nếu DN có quy mô hội đồng quản trị lớn hơn có khả năng giúp giảm thiểu tác động tiêu cực của đại dịch đến chất lượng BCTC. Điều này cho thấy, những cú sốc trong nền kinh tế có khả năng ảnh hưởng đến chất lượng BCTC và để giảm thiểu những tác động tiêu cực đó đòi hỏi các DN duy trì cơ chế quản trị mạnh mẽ, tăng hoạt động quản trị và chất lượng quản trị DN nhằm duy trì chất lượng BCTC.
Sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay gắn liền với cách mạng công nghệ số đã gia tăng những lợi ích nhất định cho nền kinh tế, trong đó có công tác lập và quản trị tài chính, chất lượng BCTC. Wen và cộng sự (2023) cho rằng, công nghệ tài chính, đổi mới công nghệ cho các dịch vụ tài chính, cải cách thu thập thông tin và sàng lọc tín dụng trong lĩnh vực tài chính, với sự phát triển nhanh chóng đã tạo ra sự đột phá và đình hình chất lượng thông tin trên thị trường tài chính. Công nghệ tài chính chống lại báo cáo sai lệch tài chính và cải thiện môi trường thông tin trên thị trường tài chính. Công bố thông tin DN là nguồn thông tin chính để các nhà đầu tư bên ngoài đánh giá và giám sát DN, do đó làm minh bạch môi trường thông tin DN giúp phát triển DN và tạo thuận lợi cho nhà đầu tư và thị trường. Ứng dụng công nghệ tài chính nâng cao quá trình sàng lọc và giám sát thông tin, kịp thời phát hiện các gian lận để cải tiến các tổ chức tài chính, các nhà quản lý có thể có BCTC trung thực hơn do chi phí báo cáo sai cao hơn. Do đó, sự phát triển và ứng dụng công nghệ tài chính có thể hạn chế việc BCTC mang tính chất cơ hội và cải thiện chất lượng thông tin tài chính, hơn nữa, sự phát triển công nghệ tài chính tăng cường sản xuất thông tin và giám sát bên ngoài và làm tăng chi phí báo cáo sai, giảm động cơ tài trợ bên ngoài để quản lý lợi nhuận.
Thời gian gần đây, các nhà đầu tư và quản lý theo đuổi vai trò các DN trong việc thúc đẩy mục tiêu toàn cầu bền vững và dài hạn và làm gia tăng nhu cầu và trách nhiệm xã hội của DN, cân nhắc lợi ích cân bằng giữa cổ đông, môi trường, xã hội và quản trị (ESG). Gafni và cộng sự (2024) cho rằng, bối cảnh kinh tế số đòi hỏi các DN cần quan tâm tới ESG để giúp DN có định hướng phát triển lâu dài và bền vững, có trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội. Do đó, các công ty đã áp dụng các chính sách có trách nhiệm xã hội từ nhiều năm và hướng tới hài hòa lợi ích cổ đông và lợi ích các bên liên quan. Vì vậy, thông tin ESG trở thành yếu tố quan trọng đối với các nhà đầu tư và DN ưu tiên thực hành đạo đức và bền vững. Cụ thể, các nhà đầu tư đã có sự tích hợp thông tin về ESG vào quyết định đầu tư, do đó cung cấp các lợi ích, giá trị DN tăng lên trong dài hạn.
Nghiên cứu tại Hoa Kỳ, Gafni và cộng sự (2024) cho rằng, khi DN tập trung cao vào nâng cao hiệu suất ESG có thể mang lại tính tích cực hơn trong chất lượng BCTC, khẳng định những quy định ràng buộc trong ESG có khả năng cải thiện chất lượng BCTC cao hơn so với những cam kết mang tính chất tự nguyện. Trong một báo cáo khác, Khalil (2022) cho rằng, niềm tin của nhà đầu tư, xã hội dựa trên mức độ tin cậy của báo cáo về hoạt động tài chính thường được đảm bảo bởi kiểm toán viên độc lập, những người thực hiện kiểm toán BCTC trên các tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm toán và đạo đức, duy trì sự chuyên nghiệp, khách quan, độc lập và giám sát chặt chẽ. Do đó, chất lượng kiểm toán viên độc lập có ảnh hưởng lớn tới chất lượng BCTC mà làm gia tăng mức độ tin cậy cho các cổ đông trong việc đưa ra quyết định đầu tư hợp lý.
Nghiên cứu tại Đài Loan, Lin và Yen (2022) cho rằng, luân chuyển kiểm toán viên có ảnh hưởng tới chất lượng BCTC do quan điểm mới, cách tiếp cận mới do các kiểm toán viên mới mang lại. Lin và Yen (2022) khẳng định, luân chuyển kiểm toán viên có xu hướng ảnh hưởng tới phương pháp lập kế toán, cụ thể là chất lượng dồn tích và do đó ảnh hưởng đến rủi ro và kết quả kiểm toán.
Giải pháp nâng cao chất lượng báo cáo tài chính trong thời đại số tại Việt Nam
Bối cảnh CMCN 4.0 đã mang đến lợi ích to lớn cho phát triển kinh tế Việt Nam. Mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế số và xã hội số trong thời gian tới là gia tăng đóng góp kinh tế số chiếm 20% GDP vào năm 2025 và 30% GDP vào năm 2030 đã được đặt ra, trong đó kinh tế số từng ngành, lĩnh vực năm 2025 đạt tối thiểu 10% và đến năm 2030 đạt tối thiểu 20%. Đồng thời, với chiến lược phát triển về số lượng và chất lượng DN nhằm đóng góp hơn vào việc làm, sản lượng cho nền kinh tế, các doanh nghiệp luôn phải hài hòa giữa phát triển kinh doanh, cải thiện hoạt động và chất lượng BCTC, thu hút nguồn vốn và thực hiện đầu tư, gắn liền với trách nhiệm xã hội của DN.
Từ bài học kinh nghiệm về nâng cao chất lượng BCTC trong thời đại số tại một số quốc gia, qua kết quả nghiên cứu này, tác giả đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam như sau:
Một là, nâng cao chất lượng BCTC DN gắn liền với áp dụng công nghệ tài chính trong quản lý, là một thành tựu lớn đã được hình thành và phát triển trong cuộc CMCN 4.0. Công nghệ tài chính gắn liền với quản lý tài chính nhằm gia tăng minh bạch cho các giao dịch, hoạt động tài chính, đồng thời làm giảm các hành vi sai trái, vi phạm đạo đức và pháp luật có liên quan đến tài chính, kinh tế. Do đó, Việt Nam cần khuyến khích các DN áp dụng công nghệ tài chính mới như thực hiện hóa đơn, quản lý sổ sách điện tử, cung cấp các giải pháp thanh toán, tiêu dùng, đầu tư trực tuyến và đồng thời nâng cấp nền tảng công nghệ nhằm đáp ứng tốt hơn các hoạt động giao dịch, hoạt động kinh tế trong bối cảnh mới.
Hai là, nâng cao chất lượng BCTC cần gắn liền với hài hòa lợi ích giữa các bên, đó là lợi ích giữa chủ đầu tư, cổ đông, khách hàng và đặc biệt là lợi ích phát triển bền vững có gắn liền với môi trường, xã hội và quản trị (ESG). Thúc đẩy ESG giúp cho DN có định hướng phát triển bền vững và lâu dài, gắn với trách nhiệm xã hội của DN như gia tăng trách nhiệm với người lao động, cộng đồng, với môi trường và với Nhà nước.
Ba là, nâng cao chất lượng BCTC cần gắn liền cải cách môi trường pháp lý giúp quản lý nền kinh tế trong môi trường số. Môi trường số có nhiều lợi ích nhưng đồng thời cũng có nhiều rủi ro, nguy cơ tội phạm an ninh mạng, tấn công mạng và có ảnh hưởng tới an ninh, an toàn cho các DN và nền kinh tế.
Tài liệu tham khảo:
- Công Thương (2023). Nhiều giải pháp nhằm đạt mục tiêu 1,5 triệu doanh nghiệp vào năm 2025. Truy cập tại https://congthuong.vn/nhieu-giai-phap-nham-dat-muc-tieu-15-trieu-doanh-nghiep-vao-nam-2025-253972.html;
- Chen, D., Li, Y., Lu, J., & Li, C. (2024). Do international tax treaties govern financial report quality? Research in International Business and Finance, 69, 102246. https://doi.org/https://doi.org/10.1016/j.ribaf.2024.102246;
- Gafni, D., Palas, R., Baum, I., & Solomon, D. (2024). ESG regulation and financial reporting quality: Friends or foes? Finance Research Letters, 61, 105017. https://doi.org/https://doi.org/10.1016/j.frl.2024.105017;
- Hsu, Y.-L., & Yang, Y.-C. (2022). Corporate governance and financial reporting quality during the COVID-19 pandemic. Finance Research Letters, 47, 102778. https://doi.org/https://doi.org/10.1016/j.frl.2022.102778;
- Khalil, U. F. (2022). Auditor choice and its impact on financial reporting quality: A case of banking industry of Pakistan. Asia Pacific Management Review, 27(4), 292–302. https://doi.org/https://doi.org/10.1016/j.apmrv.2021.12.001;
- Lin, H.-L., & Yen, A.-R. (2022). Auditor rotation, key audit matter disclosures, and financial reporting quality. Advances in Accounting, 57, 100594. https://doi.org/https://doi.org/10.1016/j.adiac.2022.100594;
- Wen, H., Fang, J., & Gao, H. (2023). How FinTech improves financial reporting quality? Evidence from earnings management. Economic Modelling, 126, 106435. https://doi.org/https://doi.org/10.1016/j.econmod.2023.106435.