Hướng tới xây dựng khung thống kê, bộ dữ liệu môi trường biển theo tiêu chuẩn quốc tế

PV. (t/h)

Những hệ sinh thái biển và ven biển có vai trò quan trọng đối với cộng đồng dân cư, góp phần đáng kể trong điều hòa khí hậu cũng như cải thiện đời sống người dân. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển, các hệ sinh thái này đang chịu nhiều áp lực và suy giảm nhanh chóng. Trước thực trạng đó, việc quản lý, khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên biển, ven biển là nhiệm vụ cấp bách và có ý nghĩa chiến lược, góp phần khai thác tài nguyên biển một cách bền vững.

Hiện nay, dù Việt Nam đã trồng và phục hồi san hô ngoài tự nhiên thành công nhưng diện tích phục hồi vẫn còn rất thấp.
Hiện nay, dù Việt Nam đã trồng và phục hồi san hô ngoài tự nhiên thành công nhưng diện tích phục hồi vẫn còn rất thấp.

Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển kinh tế biển xanh, với bờ biển kéo dài hơn 3.260 km và hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ với hơn 20 kiểu hệ sinh thái đặc trưng và là nơi sinh sống của khoảng 11.000 sinh vật biển.

Đại dương là nguồn sinh kế và dinh dưỡng quan trọng đóng góp vào quá trình tăng trưởng kinh tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Những hệ sinh thái biển và ven biển có vai trò quan trọng đối với cộng đồng dân cư, góp phần đáng kể trong điều hòa khí hậu cũng như cải thiện đời sống người dân, hướng tới một tương lai bền vững. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển, các hệ sinh thái này đang chịu nhiều áp lực và suy giảm nhanh chóng.

Trong những năm qua, các nhà khoa học đã xem xét các tài liệu về hệ sinh thái biển, kinh tế ven biển, san hô và các chính sách của Chính phủ về quản lý môi trường biển tại Việt Nam. Các nhà khoa học thực hiện một số cuộc khảo sát tại tỉnh Quảng Ninh, Nha Trang, Vũng Tàu, Quảng Ngãi nhằm đánh giá hiện trạng các hệ sinh thái biển ven bờ, đặc biệt là các rạn san hô. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tình trạng phân mảnh, suy thoái, mất môi trường sống, đánh bắt – khai thác quá mức, biến đổi khí hậu và ô nhiễm – đặc biệt là rác thải biển, là mối đe dọa đối với sức khỏe đại dương của Việt Nam.

Theo báo cáo “Hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2016-2020” của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, diện tích thảm cỏ biển từ Quảng Ninh đến Hà Tiên ước tính giảm khoảng 40-60%; diện tích rừng ngập mặn giảm khoảng 70%; khoảng 11% diện tích các rạn san hô đã bị phá hủy hoàn toàn, không có khả năng tự phục hồi.

Ở một số khu vực như Cát Bà, Hạ Long, Quảng Nam, thảm cỏ biển gần như không có cơ hội phục hồi tự nhiên do bị ảnh hưởng nặng nề từ hoạt động du lịch, nuôi trồng thủy sản. Trong khi đó, diện tích rạn san hô bị mất tập trung chủ yếu ở các khu vực có người sinh sống như Vịnh Hạ Long, các tỉnh ven biển miền Trung và một số đảo có người ở thuộc quần đảo Trường Sa, có nhiều khu vực mất hơn 30% độ che phủ san hô. Hiện nay, dù Việt Nam đã trồng và phục hồi san hô ngoài tự nhiên thành công nhưng diện tích phục hồi vẫn còn rất thấp.

Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã ghi nhận khoảng 100 loài sinh vật biển ở Việt Nam có nguy cơ bị đe dọa do khai thác, đánh bắt quá mức. Đây là những loài quý hiếm đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ IUCN và cần được bảo vệ. Nghiên cứu cho thấy, hơn 80% cá ở vùng biển ven bờ và xa bờ của Việt Nam đã bị khai thác, trong đó có tới 25% cá bị khai thác quá mức hoặc cạn kiệt, và nhiều loài sinh vật biển khác có nguy cơ tuyệt chủng.

Trước thực trạng đó, việc quản lý, khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên biển, ven biển là nhiệm vụ cấp bách và có ý nghĩa chiến lược. 

Thời gian tới, Việt Nam sẽ tích hợp hạch toán tài khoản đại dương vào hệ thống kế toán quốc gia; quan hệ đối tác (trao đổi thông tin, vận động chính sách tăng trưởng kinh tế xanh, cộng đồng thực hành); tăng cường năng lực; tiếp cận và quản lý kiến thức; tích hợp kế toán vốn tự nhiên biển và ven biển vào quy hoạch phát triển và hoạt động tại địa phương ở tỉnh Quảng Ninh.

Mới đây, tại TP. Hạ Long, Quảng Ninh, Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cũng đã tổ chức Hội thảo “Thúc đẩy hạch toán tài nguyên biển và ven biển - Kết nối và hợp tác trong khu vực”. Theo PGS., TS. Nguyễn Đình Thọ - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, Hội thảo này nhằm tìm kiếm giải pháp tăng cường áp dụng khung hạch toán đại dương trong khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển và ven biển tại Việt Nam và khu vực.

Tại Hội thảo, các chuyên gia, nhà khoa học đã đưa ra các giải pháp để thúc đẩy phát triển tài khoản đại dương như cần chuẩn hóa khung dữ liệu, số liệu thống kê và chỉ số liên quan đến môi trường biển và ven biển; xây dựng khung thống kê môi trường biển và bộ dữ liệu môi trường biển theo tiêu chuẩn quốc tế có thể so sánh được ở cấp độ quốc gia và khu vực.

Bên cạnh đó, cần tăng cường hợp tác; khuyến khích các cơ quan có dữ liệu công bố dữ liệu đó trên hệ thống danh mục dữ liệu của Chính phủ... nhằm chuẩn hóa dữ liệu đồng bộ, phục vụ cho việc ra quyết định chiến lược trong phát triển kinh tế biển và bảo vệ môi trường.

 

Tại Hội nghị, 4 phiên thảo luận nhóm về các chủ đề được các nước trên thế giới cũng như Việt Nam quan tâm đó là: Tài khoản đại dương cho phát triển đại dương bền vững tại Việt Nam; Nghiên cứu điển hình về hạch toán tài nguyên biển và ven biển tại khu vực Nam Á/ Đông Nam Á; Hướng tới xây dựng hoạch toán tài nguyen biển và ven tại khu vực; Các ưu tiên phát triển đại dương bền vững và thúc đẩy hợp tác khu vực.