Khắc phục những tồn tại trong công tác cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ
Ngày 1/3/2017, Bộ Tài chính đã tổ chức họp báo chuyên đề nhằm thông tin về Nghị định 04/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/1/2017 thay thế Nghị định 15/2011/NĐ-CP ngày 16/2/2011 về cấp và quản lý bảo lãnh chính phủ.
Đưa công tác quản lý bảo lãnh chính phủ tiệm cận thông lệ quốc tế
Phát biểu tại buổi họp báo, ông Hoàng Hải, Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) cho biết: Thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ ngày 3/1/2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2015, trong đó có việc “kiểm soát chặt chẽ việc cấp và quản lý bảo lãnh chính phủ, giảm dần hạn mức cấp bảo lãnh chính phủ, tiến tới thu hẹp để tập trung hỗ trợ của Chính phủ cho các dự án, chương trình trọng điểm, chuyển dần sang kênh bảo lãnh của các ngân hàng thương mại”;
Theo Nghị định 04/2017/NĐ-CP, mức bảo lãnh chính phủ sẽ giảm từ 80% tổng mức đầu tư của chương trình, dự án xuống còn không vượt quá 70%, tùy theo cấp độ quan trọng của chương trình, dự án.
Đồng thời, thực hiện các nhiệm vụ có liên quan tới bảo lãnh chính phủ tại Chỉ thị 02/CT-TTg ngày 14/2/2015 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công, đặc biệt là Nghị quyết 07/NQ-TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, Bộ Tài chính đã nghiên cứu và trình Chính phủ ban hành Nghị định 04/2017/NĐ-CP ngày 16/1/2017 thay thế Nghị định 15/2011/NĐ-CP ngày 16/2/2011 về cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ.
Nghị định số 04/2017/NĐ-CP của Chính phủ về cấp và quản lý bảo lãnh chính phủ chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1/3/2017, với mục tiêu cụ thể hóa chỉ đạo của Đảng và Chính phủ về tăng cường công tác quản lý nợ công; Khắc phục một số tồn tại trong công tác cấp và quản lý bảo lãnh chính phủ giai đoạn trước; Kiện toàn cơ sở pháp lý, đáp ứng yêu cầu tăng cường kiểm soát chặt chẽ trong cấp và quản lý bảo lãnh chính phủ.
Đặc biệt, góp phần tăng cường kiểm soát chặt chẽ trong cấp và quản lý rủi ro trong bảo lãnh chính phủ, đưa công tác quản lý bảo lãnh chính phủ tiến gần hơn tới các thông lệ quốc tế, Nghị định 04/2017/NĐ-CP đã có các điều chỉnh về mức bảo lãnh chính phủ, cách xác định phí bảo lãnh; đăng ký kế hoạch cấp bảo lãnh; quy trình, thủ tục, thẩm định cấp bảo lãnh chính phủ cũng như bổ sung các quy định liên quan đến việc quản lý vốn vay được Chính phủ bảo lãnh, tài sản thế chấp và quản lý rủi ro.
Mức bảo lãnh mới sẽ không vượt quá 70% tổng mức đầu tư
Theo quy định mới, mức bảo lãnh chính phủ sẽ giảm từ 80% tổng mức đầu tư của chương trình, dự án xuống còn không vượt quá 70%, tùy theo cấp độ quan trọng của chương trình, dự án.
Đồng thời, tối đa 70% đối với các dự án cấp bách được Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư; tối đa 60% đối với các dự án nhóm A có tổng mức đầu tư từ 2.300 tỷ đồng trở lên được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư và tối đa 50% đối với các dự án khác.
Giá trị tài sản thế chấp được quy định rõ với mức tối thiểu bằng 120% trị giá gốc của khoản vay, khoản phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh. Các mức phí bảo lãnh đã được điều chỉnh lại mới mức phí tối thiểu tăng từ 1,5%/năm trên số dư nợ được bảo lãnh lên 2%/năm; đồng thời bổ sung thêm hệ số năng lực tài chính của doanh nghiệp vào yếu tố tính phí bảo lãnh.
Quy trình, thủ tục thẩm định cấp bảo lãnh, thế chấp tài sản và quản lý rủi ro, trách nhiệm của các bên liên quan trong toàn bộ quy trình cấp và quản lý bảo lãnh chính phủ cũng đã được quy định cụ thể để thể hiện đầy đủ và làm rõ quy trình thực tế triển khai mà không làm tăng thêm thủ tục hành chính.
Quy trình mới về ngân hàng phục vụ và tài khoản dự án được bổ sung để tăng cường công tác quản lý bảo lãnh, kiểm soát khả năng trả nợ của chủ đầu tư và giảm bớt rủi ro tài chính cho Chính phủ với tư cách là người bảo lãnh.
Nghị định mới cũng quy định cụ thể về điều khoản chuyển tiếp để hạn chế những vướng mắc có thể phát sinh cho các đối tượng liên quan trong giai đoạn đầu, khi Nghị định mới có hiệu lực.