Khống chế chi phí lãi vay được trừ: Giải pháp chống xói mòn cơ sở thuế ở Việt Nam


Quy định khống chế chi phí lãi vay trong chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ hạn chế doanh nghiệp vay gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu, qua đó góp phần chống chuyển giá thông qua hình thức vay vốn giữa các bên liên kết, hạn chế thất thu ngân sách nhà nước.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Bài viết nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về khống chế chi phí lãi vay trong chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp ở một số quốc gia và gợi mở một số hàm ý để hoàn thiện chính sách cho Việt Nam về vấn đề này.

Xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận (BEPS) là vấn đề mang tính thời sự toàn cầu khi mà tình trạng này đang ngày càng trở nên phổ biến thông qua hành vi chuyển giá, thương mại điện tử, thiên đường thuế...

Theo đó, người nộp thuế đã lợi dụng khoảng trống và những hạn chế trong chính sách thuế cũng như công tác quản lý thuế tại những nước, nơi doanh nghiệp (DN) tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh để chuyển lợi nhuận sang những nước/vùng lãnh thổ có mức thuế suất thấp hơn hoặc bằng không. Chuyển giá thông qua hoạt động vay vốn của các bên liên kết nhằm làm giảm thiểu nghĩa vụ thuế tính chung cho cả tập đoàn là thủ thuật được nhiều DN, nhất là các công ty đa quốc gia áp dụng.

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) từ khi được áp dụng ở Việt Nam không có quy định khống chế khoản chi phí lãi vay được trừ vào chi phí đối với trường hợp khoản vay vượt quá nhiều lần vốn chủ sở hữu. Điều đó có nghĩa là DN được phép tính vào chi phí hợp lý bất kể số tiền chi trả lãi tiền vay ở mức nào và được phép khấu trừ khi xác định nghĩa vụ thuế.

Chính vì vậy, DN có thể vay vượt gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu dẫn đến chi phí trả lãi tiền vay lớn, làm giảm thu nhập chịu thuế điều này làm giảm nghĩa vụ thuế phải nộp, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Mặt khác, việc DN vay gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu còn tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn tài chính, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh doanh cũng như sự phát triển của nền kinh tế.

Bài viết nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn ở một số nước và khuyến nghị về áp dụng khung khống chế chi phí lãi vay được trừ khi xác định nghĩa vụ thuế thu nhập của DN ở Việt Nam.

Lý luận chung về khống chế chi phí lãi vay được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp

Chính sách thuế là một trong những công cụ kinh tế vĩ mô quan trọng của Chính phủ để quản lý và định hướng phát triển kinh tế - xã hội trong nền kinh tế. Bên cạnh việc tạo nguồn thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước, hệ thống thuế còn góp phần quan trọng trong điều tiết sản xuất, tiêu dùng, tác động đến các quan hệ tiết kiệm - đầu tư cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua các ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến những hành vi của các chủ thể trong xã hội, đặc biệt là khu vực DN và hộ gia đình.

Thuế TNDN là loại thuế điều tiết trực tiếp thu nhập thực tế (thu nhập tính thuế) của pháp nhân kinh doanh trong một khoảng thời gian nhất định, thường là 01 năm. Ở tất cả các nước, thuế TNDN là một sắc thuế quan trọng, là nguồn thu chính của ngân sách nhờ cơ sở chịu thuế rộng.

Thuế TNDN áp dụng đối với thu nhập của pháp nhân kinh doanh theo nguyên tắc cư trú và nguyên tắc nguồn phát sinh thu nhập. Theo nguyên tắc cư trú, DN đăng ký và hoạt động theo pháp luật ở nước nào thì phải nộp thuế TNDN ở nước đó. Theo nguyên tắc nguồn phát sinh thu nhập, thu nhập phát sinh ở quốc gia nào thì phải nộp thuế TNDN ở quốc gia đó.

Thu nhập tính thuế được xác định trên cơ sở các khoản thu nhập chịu thuế nhận được sau khi khấu trừ các khoản chi phí theo luật định. Tùy theo pháp luật của mỗi nước mà nội dung, phương pháp xác định các khoản được khấu trừ và thu nhập tính thuế có thể khác nhau. Các khoản chi phí được trừ theo nguyên tắc là những chi phí trực tiếp hoặc gián tiếp hợp lý, hợp lệ phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN.

Tuy nhiên, nhiều DN đã lợi dụng khoảng trống và những hạn chế trong chính sách thuế cũng như công tác quản lý thuế tại những nước nơi DN hoạt động sản xuất kinh doanh để giảm nghĩa vụ thuế phải nộp bằng hành vi chuyển giá thông qua hoạt động vay vốn của các bên liên kết, từ đó chuyển lợi nhuận sang những nước/vùng lãnh thổ có mức thuế suất thấp hơn hoặc bằng 0.

Về nguyên tắc, việc vay vốn thuộc quyền tự do kinh doanh của DN trong nền kinh tế thị trường, bởi vốn kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của DN. Khi thành lập DN hay trong quá trình sản xuất kinh doanh, DN sẽ xác định nhu cầu và cơ cấu vốn của mình.

Tùy thuộc vào đặc điểm của ngành mà DN huy động, tùy thuộc vào quyết định của nhà quản lý trên cơ sở xem xét tình hình tài chính thực tế của DN cũng như tình hình và xu thế phát triển của nền kinh tế mà DN quyết định cơ cấu vốn hợp lý để đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh và đảm bảo an toàn cho DN. Không một DN nào có thể tồn tại và phát triển nếu chỉ dựa hoàn toàn vào vốn chủ sở hữu. DN có thể huy động vốn vay từ các bên liên doanh liên kết, từ các ngân hàng, các tổ chức tín dụng từ phát hành trái phiếu và các khoản nợ khác.

Mỗi một nguồn vốn tài trợ đều phải trả một khoản chi phí nhất định, đó là chi phí sử dụng vốn. Với quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể có quyền quyết định mức vốn vay với chi phí lãi vay theo thỏa thuận. Đây chính là một trong những hình thức các DN liên kết, các công ty đa quốc gia có thể lợi dụng để giảm nghĩa vụ thuế phải nộp và được nhận diện là một hình thức chuyển giá thông qua hoạt động tín dụng.

Bảng 1: Cơ cấu vốn vay so vốn chủ sở hữu của một số nhóm doanh nghiệp (Bình quân/lần)

DN

2014

2015

2016

2017

Thiết bị, vật liệu xây dựng

1,85

1,47

1,58

2,04

Xây dựng, xây lắp

3,47

4,26

3,81

3,10

Khai thác khoáng sản

0,91

0,75

0,76

1,27

Ngân hàng

12,44

13,53

15,06

16,78

Du lịch

1,57

2,54

2,42

5,82

OECD đã đề xuất một kế hoạch tổng thể với nhiều hành động nhằm chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận, trong đó đưa ra khuyến nghị áp dụng Hành động số 4 về hạn chế xói mòn cơ sở tính thuế thông qua các khoản khấu trừ lãi tiền và và các thanh toán tài chính khác. Về cơ bản, có hai cách tiếp cận để cơ quan quản lý thuế có thể hạn chế thất thu ngân sách đối với thủ thuật góp vốn ẩn hay chuyển giá thông qua hoạt động tín dụng:

Một là, quy định mức vốn vay được tính chi phí lãi vay được trừ khi xác định thu nhập tính thuế. Theo đó, chi phí lãi vay của khoản vay vượt hạn mức thì không được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập tính thuế. Đối với cách tiếp cận này, có 2 phương pháp xác định mức vốn vay được tính chi phí lãi vay được trừ:

(i) Phương pháp xác định theo nguyên tắc “giao dịch độc lập”: Mức vốn vay được tính chi phí lãi vay là mức vốn mà bên cho vay độc lập sẵn sàng cho bên đi vay được vay vốn, căn cứ vào khả năng vay và trả nợ của bên đi vay.

Ưu điểm của phương pháp này là cho phép xác định sát thực hơn số vốn vay mà DN có thể vay theo tín hiệu thị trường (giao dịch độc lập), từ đó xác định sát thực hơn số chi phí lãi vay được trừ khi xác định thu nhập tính thuế, đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quyền tự do kinh doanh của DN.

Nhược điểm của phương pháp này là đòi hỏi về nguồn nhân lực và trình độ nghiệp vụ của cơ quan thuế. Theo đó, cán bộ thuế cần nắm vững và hiểu rõ quy trình mà bên cho vay thứ 3 sử dụng để xác định đúng mức tối đa mà bên cho vay thứ 3 muốn cho DN cụ thể đó vay vốn. Cơ quan thuế phải thành thạo và có khả năng giám định các nghiệp vụ của bên cho vay thứ 3 để xác định các đặc thù của mối quan hệ giữa các bên liên kết để xác định mức vốn vay phù hợp.

(ii) Phương pháp xác định theo tỷ lệ vốn vay so vốn chủ sở hữu: Theo đó, cơ quan thuế quy định trước tỷ lệ vốn vay được tính chi phí lãi vay khi xác định thu nhập tính thuế, không bắt buộc đó là khoản vay theo nguyên tắc giao dịch độc lập.

Ưu điểm của phương pháp này là đảm bảo tính chắc chắn và giảm thiểu chi phí tuân thủ của người nộp thuế và chi phí quản lý của cơ quan thuế, dễ thực hiện.

Nhược điểm của phương pháp này là không phản ánh đúng thực tiễn quan hệ kinh tế, có thể làm méo mó hành vi của các bên liên kết. Mặt khác, phương pháp này không phản ánh đúng các yếu tố đặc thù của thị trường, của ngành sản xuất và có thể dẫn đến cách đối xử khác nhau đối với các thành viên trong cùng tập đoàn, công ty đa quốc gia với bên thứ 3. Hơn nữa, hiện nay không có chuẩn mực chung trên phạm vi quốc tế về việc xác định tỷ lệ hợp lý vốn vay so vốn chủ sở hữu.

Hai là, quy định mức khống chế chi phí lãi vay được trừ theo tỷ lệ thu nhập (Phương pháp EBITDA). Theo đó, cơ quan thuế quy định tỷ lệ cố định của chi phí lãi vay trên lợi nhuận trước thuế, lãi vay và khấu hao (Ví dụ: DN được tính chi phí lãi vay vào chi phí được trừ nhưng không quá 30% của lợi nhuận trước thuế, lãi vay và khấu hao).

Công thức tính: EBITDA = Doanh thu  – Các khoản chi phí (ngoại trừ chi phí lãi vay, thuế, khấu hao tài sản cố định hữu hình và vô hình)

Ưu điểm của phương pháp EBITDA là tính đơn giản, gắn với kết quả kinh doanh của DN.

Nhược điểm của phương pháp EBITDA là không xét đến bối cảnh sử dụng đòn bẩy tài chính của DN; không đảm bảo sự bình đẳng giữa các DN bởi các DN có mức vốn vay khác nhau có thể có mức chi phí lãi vay được trừ khác nhau do có tài sản được khấu hao khác nhau, có lợi nhuận khác nhau; chi phí lãi vay được trừ thường xuyên biến động qua các năm.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ban hành quy định khống chế chi phí lãi vay được trừ khi tính thuế thu nhập của DN, trong đó đa số các nước hiện nay quy định tỷ lệ vốn vay so vốn chủ sở hữu để xác định chi phí lãi vay được trừ khi xác định thu nhập tính thuế.

Tuy nhiên, có một số nước áp dụng quy định về tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu đối với tất cả các khoản vay; một số nước áp dụng quy định về tỷ lệ chi phí lãi vay được trừ tính trên thu nhập, áp dụng đối với các khoản vay của các bên liên quan; một số nước áp dụng quy định về tỷ lệ chi phí lãi vay được trừ tính trên thu nhập, áp dụng đối với tất cả các khoản vay. Một số nước (Anh, Nam Phi và Kazakhstan) áp dụng nguyên tắc giao dịch độc lập.

Theo OECD, phương pháp giới hạn chi phí lãi vay bởi một tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu được xem là một trong những thông lệ tốt nhất do việc xác định đơn giản và dễ thực hiện. Các yếu tố cấu thành vốn vay dựa trên các báo cáo tài chính, bảng cân đối kế toán từ các khoản vay phải trả lãi suất và các khoản phải trả thương mại chịu lãi suất và những khoản tương tự như khoản vay có thể được kiểm soát tốt hơn. Mỗi phương pháp xác định chi phí lãi vay được trừ khi xác định thu nhập tính thuế đều có ưu nhược điểm khác nhau. Mỗi quốc gia tùy thuộc vào tình hình thực tế đã đưa ra các quy định để giới hạn chi phí lãi vay được trừ khi tính thuế TNDN.

Thực trạng ở Việt Nam

Tại Việt Nam, thuế TNDN được áp dụng từ ngày 01/01/1999, đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, đảm bảo chính sách ngày càng công khai, minh bạch và đồng bộ, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và các cam kết quốc tế. Cùng với quá trình cải cách thuế, thuế TNDN ở Việt Nam đối với chi phí của DN cũng được thay đổi từ “nguyên tắc chọn - cho” sang “nguyên tắc chọn - bỏ”.

Luật thuế TNDN số 14/2008/QH12 ngày 03/6/2008 đã quy định cụ thể các khoản không được trừ (áp dụng nguyên tắc chọn bỏ), theo đó, DN được trừ mọi khoản chi nếu đáp ứng đủ các điều kiện đó là: (i) Khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN; (ii) Khoản chi có đủ hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, Luật thuế TNDN từ khi được áp dụng ở Việt Nam không có quy định khống chế khoản chi phí lãi tiền vay được trừ vào chi phí đối với trường hợp khoản vay vượt quá nhiều lần vốn chủ sở hữu. Điều đó có nghĩa là DN được phép tính vào chi phí hợp lý bất kể số tiền chi trả lãi tiền vay ở mức nào và được phép khấu trừ khi xác định nghĩa vụ thuế.

Chính vì vậy, DN có thể vay vượt gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu dẫn đến chi phí trả lãi tiền vay lớn, làm giảm thu nhập chịu thuế, dẫn đến làm giảm nghĩa vụ thuế phải nộp, gây thất thu cho ngân sách. Mặt khác, việc DN vay gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu còn tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn tài chính, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh doanh cũng như sự phát triển của nền kinh tế.

Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), giai đoạn 2007-2014, DN hoạt động dựa nhiều vào các khoản nợ (nợ nhà cung cấp, các khoản vay tài chính…). Mặc dù, chỉ số nợ của các DN đã giảm trong giai đoạn 2007-2014, từ 2,2 lần xuống còn 1,6 lần, tuy nhiên sau đó tăng trở lại trong các năm tiếp theo, đạt mức 2,3 lần năm 2011.

Các DNNN là nơi có chỉ số nợ cao nhất, mặc dù có xu hướng giảm từ 4,3 lần năm 2007 xuống 3,2 lần năm 2011. Chỉ số nợ của DNNN đã cải thiện đáng kể, liên tục giảm trong giai đoạn 2007-2014 từ 3,7 lần xuống 2,8 lần. Tuy giảm liên tục nhưng DNNN vẫn có chỉ số nợ cao nhất. Chỉ số nợ của DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có xu hướng tăng nhẹ trong giai đoạn 2007-2014, từ 2,6 lần lên 2,7 lần.

Tính toán từ số liệu báo cáo tài chính của các DN niêm yết trên thị trường chứng khoán cho thấy, lĩnh vực ngân hàng có cơ cấu vốn vay so vốn chủ sở hữu cao nhất, lên tới 16,78% lần (2017). Điều này có thể lý giải đây là lĩnh vực đặc thù về dịch vụ tài chính. Lĩnh vực xây dựng, xây lắp cũng có tỷ lệ vốn vay so vốn chủ sở hữu cao, lên tới 3,10 lần (2017).

Luật Thuế TNDN hiện hành không khống chế khoản chi phí lãi tiền vay đối với trường hợp khoản vay vượt quá nhiều lần vốn chủ sở hữu. Điều đó có nghĩa là DN được phép tính vào chi phí hợp lý bất kể số tiền chi trả lãi tiền vay ở mức nào và được phép khấu trừ khi xác định nghĩa vụ thuế. Chính vì vậy, DN có thể vay vượt gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu do chi phí trả lãi tiền vay lớn, làm giảm thu nhập chịu thuế dẫn đến giảm nghĩa vụ thuế phải nộp, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Mặt khác, việc DN vay gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu còn tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn tài chính, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh doanh cũng như sự phát triển của nền kinh tế.

Ngô Thế Chi (2012) đã chỉ ra thủ thuật chuyển giá của các DN FDI ở Việt Nam thông qua hoạt động góp vốn ẩn trong nội bộ tập đoàn kinh tế. Theo đó, các DN FDI ở Việt Nam vay vốn của công ty mẹ, hoặc công ty liên kết nước ngoài thuộc tập đoàn với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường. Thông qua cách này đã phát sinh các khoản thanh toán dưới dạng trả lãi tiền vay với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường làm cho chi phí tăng lên, thu nhập tính thuế TNDN giảm, NSNN thất thu, khoản thất thu này là lợi nhuận của công ty mẹ hoặc công ty liên kết ở các nước.

Phan Hữu Thắng (2013) cho rằng, hiện tượng chuyển giá của các DN FDI tại Việt Nam diễn ra ở nhiều dạng với các thủ thuật khác nhau theo các giai đoạn đầu tư, loại hình đầu tư, lĩnh vực - sản phẩm đầu tư, thời gian đầu tư. Theo đó, sử dụng chi phí trả lãi tiền vay cũng là một cách mà các DN FDI sử dụng để chuyển giá, làm giảm nghĩa vụ thuế phải nộp.

Công ty mẹ đưa nguyên vật liệu, vật tư linh kiện đầu vào mà ở Việt Nam chưa sản xuất được hoặc chất lượng chưa đảm bảo, công ty ở Việt Nam báo cáo không có tiền lấy hàng, công ty mẹ cho trả chậm sau khi bán sẽ trả, thời gian trả chậm đó phải có lãi. Việc này được DN coi là trả lãi tiền vay. Nên khi DN bán hàng ra có lãi đều tính vào chi phí trả lãi tiền vay, dẫn tới hết lãi. Phần lãi thực, thông qua trả lãi đã chuyển hết ra ngoài cho công ty mẹ.

Theo thống kê của Thanh tra Chính phủ, cả nước có khoảng 50% DN FDI kê khai lỗ, trong đó nhiều DN thua lỗ liên tục trong nhiều năm. TP. Hồ Chí Minh có gần 60% trong số trên 3.500 DN FDI thường xuyên kê khai lỗ trong nhiều năm. Tại Bình Dương, có đến 50% DN FDI báo cáo lỗ trong giai đoạn 2006-2011.

Do đó, quy định khống chế chi phí lãi vay trong chính sách thuế TNDN sẽ góp phần hạn chế DN vay gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu, qua đó góp phần chống chuyển giá thông qua hình thức vay vốn (thực chất là góp vốn ẩn) giữa các bên liên kết, hạn chế thất thu cho ngân sách. Đồng thời, áp dụng quy định khống chế chi phí lãi vay trong chính sách thuế TNDN còn góp phần giảm thiểu nguy cơ mất an toàn tài chính và định hướng DN tiếp cận vốn theo cơ chế thị trường thông qua thị trường tín dụng ngân hàng hoặc thị trường chứng khoán.

Kết luận và kiến nghị

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về khống chế chi phí lãi vay được trừ khi tính thuế TNDN cũng như thực tiễn kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam nên áp dụng phương pháp xác định theo tỷ lệ vốn vay so với vốn chủ sở hữu. Theo đó, cơ quan thuế quy định trước tỷ lệ vốn vay được tính chi phí lãi vay khi xác định thu nhập tính thuế, không bắt buộc đó là khoản vay theo nguyên tắc giao dịch độc lập.

Ưu điểm của phương pháp này là đảm bảo tính chắc chắn, giảm thiểu chi phí tuân thủ của người nộp thuế và chi phí quản lý của cơ quan thuế, dễ thực hiện. Do đó, phương án phù hợp với công tác quản lý thuế của cơ quan thuế là áp dụng quy định về tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu đối với các khoản vay của các bên liên kết.

Như vậy, đối với trường hợp DN Việt Nam vay vốn của DN liên kết một số tiền gấp 3 lần số vốn chủ sở hữu (tỷ lệ 3:1) thì lãi phải trả cho số vốn vay vượt quá tỷ lệ này được coi là cổ tức trả cho DN liên kết và không được tính là chi phí được trừ khi tính thuế. Trường hợp các tổ chức tài chính, ngân hàng thương mại thì áp dụng tỷ lệ (6:1). Vốn chủ sở hữu trong năm được xác định bằng số trung bình cộng của số dư đầu kỳ và cuối kỳ. Đây là phương án được nhiều quốc gia áp dụng, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho DN tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.

Giả sử Công ty X tại Việt Nam vay vốn của Công ty Y là công ty mẹ tại nước ngoài với tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu là (6:1). Năm 2017 Công ty X có lợi nhuận trước thuế là 10.000 tỷ đồng nhưng phải trả chi phí lãi vay cho Công ty Y là 4.000 tỷ đồng. Do chưa áp dụng khung khống chế chi phí lãi vay được trừ nên Công ty X được trừ toàn bộ chi phí lãi vay là 4.000 tỷ đồng.

Như vậy, thu nhập tính thuế sau khi trừ chi phí lãi vay là 6.000 tỷ đồng. Với mức thuế suất thuế TNDN hiện hành là 20% thì ngân sách nhà nước thu được 1.200 tỷ đồng tiền thuế. Với trường hợp trên, nếu áp dụng khung khống chế chi phí lãi vay được trừ như đề xuất (3:1) nên Công ty X được chỉ được trừ chi phí lãi vay là 2.000 tỷ đồng. Như vậy, thu nhập tính thuế sau khi trừ chi phí lãi vay là 8.000 tỷ đồng.

Với mức thuế suất thuế TNDN hiện hành là 20% thì ngân sách nhà nước thu được 1.600 tỷ đồng tiền thuế. So với trường hợp không áp dụng khung khống chế chi phí lãi vay được trừ thì trường hợp có áp dụng khung khống chế chi phí lãi vay được trừ sẽ làm tăng thu ngân sách nhà nước thêm 400 tỷ đồng.

Bảng 2: Tính toán tác động đối với thu ngân sách nhà nước từ thuế thu nhập doanh nghiệp doanh nghiệp X.

Chỉ tiêu

Trường hợp không áp dụng quy định khống chế chi phí lãi vay

Trường hợp có áp dụng quy định khống chế chi phí lãi vay

Tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu

6:1

3:1

Chi phí lãi vay (tỷ đồng)

4.000

2.000

Thu nhập trước thuế (tỷ đồng)

10.000

10.000

Thu nhập tính thuế sau khi khấu trừ chi phí lãi vay (tỷ đồng)

6.000

8.000

Mức thuế suất thuế TNDN

20%

20%

Số thu thuế TNDN (tỷ đồng)

1.200

1.600

 

Nguồn: Tính toán của tác giả

Đối với an toàn tài chính: Việc khống chế khoản chi phí trả lãi tiền vay không được trừ vào chi phí đối với trường hợp khoản vay vượt quá nhiều lần vốn chủ sở hữu qua đó sẽ hạn chế tình trạng DN đi vay quá nhiều, đảm bảo an toàn tài chính cho DN, phản ánh đúng chi phí lãi vay phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời góp phần làm giảm rủi ro nợ xấu cho hệ thống ngân hàng.

Đối với nền kinh tế: Việc áp dụng khung khống chế chi phí lãi vay được trừ khi tính thuế thu nhập DN ở Việt Nam còn nhằm định hướng DN tiếp cận vốn theo cơ chế thị trường thông qua thị trường vốn, hạn chế tình trạng sở hữu chéo trong DN, qua đó hạn chế rủi ro khủng hoảng kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.

Việc áp dụng khung khống chế chi phí lãi vay được trừ khi tính thuế TNDN ở Việt Nam là phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với khuyến cáo OECD về chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận, trong đó đưa ra khuyến nghị áp dụng Hành động số 4 về hạn chế xói mòn cơ sở tính thuế thông qua các khoản khấu trừ lãi tiền và và các thanh toán tài chính khác. Chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận cũng là nội dung hợp tác đa phương về thuế trong khuôn khổ các diễn đàn khu vực như ASEAN, APEC.

Năm 2017, các nhà lãnh đạo của 21 nền kinh tế thành viên APEC đã thông qua Tuyên bố chung về các vấn đề liên quan đến các chủ đề hợp tác ưu tiên, trong đó có chủ đề xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận.

Theo đó, Bộ trưởng Bộ Tài chính 21 nền kinh tế đã khẳng định nhận thức tác động quan trọng của các vấn đề xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận đến các nền kinh tế thành viên APEC và sự cần thiết tăng cường hợp tác trong khu vực nhằm chia sẻ kinh nghiệm, cách tiếp cận và các thông lệ tốt nhất trong việc xây dựng chính sách, pháp luật và quản lý thuế, nhằm giải quyết những thách thức về BEPS trong khu vực, đồng thời nâng cao tính chắc chắn, minh bạch và công bằng của hệ thống thuế.

Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho DN xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch kinh doanh hiệu quả, thể hiện sự minh bạch của chính sách thuế, Việt Nam có thể quy định rõ thời hạn có hiệu lực của quy định về khung khống chế chi phí lãi vay được trừ khi tính thuế thu nhập DN với thời hạn 3 năm, kể từ ngày quy định này được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thông qua.

Tài liệu tham khảo:

  1. Gangadha Prasad Shukla, Phạm Minh Đức, Michael Engelschalk, Lê Minh Tuấn (2011), “Cải cách thuế ở Việt Nam: Hướng tới một hệ thống hiệu quả và công bằng hơn”, Ngân hàng Thế giới;
  2. Ngô Thế Chi (2013), “Giải pháp hạn chế các thủ thuật chuyển giá trong điều kiện hiện nay của các công ty đa quốc đang hoạt động tại Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tài chính;
  3. Vũ Nhữ Thăng (2017), “Gói hành động về xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS): Khả năng áp dụng tại Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tài chính;
  4. Phan Hữu Thắng (2013), “Nhận biết dấu hiệu chuyển giá”, http://baodautu.vn/nhan-biet-dau-hieu-chuyen-gia-d5715.html;
  5. VCCI (2015), Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2015;
  6. Peter Barnes (2014), Papers on Selected Topics in Protecting the Tax Base of Developing Countries”, Duke University School of Law, USA.