Chính sách hỗ trợ phát triển lĩnh vực khoa học công nghệ:
Kỳ 1: Cụ thể hóa từ chính sách đến thực tiễn
Thông qua những Nghị quyết mới như: Nghị quyết 57-NQ/TW, Nghị quyết 68-NQ/TW, Nghị quyết 198/2025/QH15… với nhiều nội dung, quy định về hỗ trợ tài chính, ưu đãi thuế, Bộ chính trị và Quốc Hội đã và đang cụ thể hóa từ chính sách đến thực tiễn nhằm góp phần phát triển lĩnh vực khoa học công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số quốc gia trong giai đoạn mới.

Các chính sách hỗ trợ đúng trọng tâm và đối tượng
Đánh giá về tác động của các chính sách này đối với lĩnh vực KHCN, ThS Nguyễn Văn Được, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Kế toán và Tư vấn Thuế Trọng Tín cho biết, những Nghị quyết vừa ra đời có vai trò rất quan trọng trong bối cảnh kỷ nguyên vươn mình của đất nước dựa trên nền tảng thúc đẩy và phát triển KHCN.

Đây là các văn kiện thể hiện chủ trương, quyết sách quan trọng của Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, chú trọng đến phát triển KHCN. Những Nghị quyết đã vạch ra chủ trương, đường lối chỉ đạo với tinh thần quyết liệt của cả hệ thống chính trị trong đó có sự bắt nhịp nhanh, kịp thời của Chính phủ đối với lĩnh vực này.
Bên cạnh đó, những văn kiện trên là cơ sở để tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về chính sách tài chính, ưu đãi thuế để hỗ trợ lĩnh vực KHCN do vẫn còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ cũng như chưa phù hợp với thực tế thay đổi quá nhanh của KHCN.
Ngoài ra, các chính sách ưu đãi, hỗ trợ được xây dựng khoa học, bài bản phù hợp với quy hoạch, định hướng tổng thể, có trọng tâm, trọng điểm, chuyên sâu và đúng theo từng đối tượng, đồng thời mở ra nhiều ưu đãi nhằm thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển KHCN nhanh, mạnh và bền vững.
Điểm nhấn nổi bật khi Chính phủ quyết tâm triển khai các Nghị quyết của Bộ chính trị và Quốc hội theo phương trâm “vừa đi, vừa làm” và “chỉ bàn làm, không bàn lùi” để kịp thời chỉ đạo, thực hiện các chính sách nêu trên mặc dù chưa được Luật hóa cụ thể đơn cử như Nghị quyết số 03/NQ-CP đã cho thấy sự chuẩn bị và triển khai, chỉ đạo quyết tâm và đầy trách nhiệm của Chính phủ đối với các chính sách này.
Nhìn chung, các chính sách tài chính, ưu đãi thuế hỗ trợ đối với KHCH đã được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, chú trọng có trọng tâm, trọng điểm và đúng đối tượng với sự gia tăng chi đầu tư công, tăng thời gian và các mức ưu đãi, hỗ trợ cũng như mở rộng các đối tượng ưu đãi, hỗ trợ.
Hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp hoạt động KHCN
Theo ThS Nguyễn Văn Được, mỗi nhóm chính sách đều có những tác động tích cực đến sự phát KHCN, điều quan trọng là được đặt trong mối quan hệ tổng thể và mối quan hệ biện chứng tương quan sẽ phát huy tối đa hiệu quả của chính sách.

Điển hình, tại Nghị quyết 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 vừa được Quốc hội thông qua được xem là một trong những đòn bẩy quan trọng nhằm hỗ trợ và thúc đẩy tối đa cho lĩnh vực KHCN, đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số phát triển, với những ưu điểm chính:
Thứ nhất, các chính sách tăng chi đầu tư công được quy định tại Nghị quyết 57-NQ/TW như: Mức chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) là 2%, tăng mức chi ngân sách hàng năm từ 2% lên 3% và tăng dần theo yêu cầu phát triển cho KHCN, ĐMST, chuyển đổi số.
Đây được xem là bản lề và xương sống của chính sách ưu đãi, hỗ trợ KHCN bởi khi nguồn chi công được tăng lên và có sự đảm bảo tính khả thi là cơ sở để hoạch định và triển khai các chính sách ưu đãi, hỗ trợ được bao phủ, toàn diện với tần suất và hàm lượng lớn hơn, mạnh hơn đủ để kích hoạt và thúc đẩy KHCN phát triển.
Thứ hai, với các chính sách gia tăng ưu đãi hỗ trợ được quy định tại Nghị quyết 68-NQ/TW như: Tăng mức trích lập quỹ KHCN từ 10% lên 20% không phân biệt hình thức sở hữu (doanh nghiệp Nhà nước, hay tư nhân) và trao quyền chủ động tự triển khai hoặc đặt hàng từ bên ngoài cho doanh nghiệp…
Hay duy trì mức ưu đãi thuế suất thuế TNDN 10% trong 15 năm, miễn thuế TNDN trong thời hạn 2 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 4 năm tiếp theo đối với thu nhập từ hoạt động khởi nghiệp, ĐMST của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, công ty quản lý quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp ĐMST (tại Điều 10, Nghị quyết 198).
Nhóm chính sách này đã đóng vai trò hỗ trợ, thúc đẩy và gia tăng tạo động lực cho quá trình đầu tư, triển khai, ứng dụng KHCN hình thành và phát triển.
Thứ ba, chính sách mới được bổ sung nhằm hỗ trợ, ưu đãi có trọng tâm, trọng điểm và đúng đối tượng, từ đó tăng thêm hiệu quả của chính sách như: Nghị quyết 68 và Nghị quyết 198 quy định, cho phép doanh nghiệp tính 200% chi phí đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển khi tính thuế TNDN (tại khoản 2 Điều 12 Nghị quyết 198).
Hay chính sách miễn thuế TNCN, thuế TNDN đối với khoản thu nhập từ chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp, quyền góp vốn, quyền mua cổ phần, quyền mua phần vốn góp vào doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
Miễn thuế TNCN trong thời hạn 2 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 4 năm tiếp theo đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của chuyên gia, nhà khoa học nhận được từ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, trung tâm nghiên cứu phát triển, trung tâm ĐMST, tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (Điều 10 Nghị quyết 198).
Với các chính sách mới bổ sung phù hợp với đặc thù của KHCN sẽ tạo cho chính sách có tính bao quát, đúng trọng tâm, trọng điểm và đúng đối tượng với những hỗ trợ đúng bản chất sẽ phát huy tối đa hiệu quả của các chính sách ưu đãi, hỗ trợ từ đó tăng thu hút đầu tư vào lĩnh vực này.
Thứ tư, các chính sách được mở rộng đối tượng cả chiều rộng lẫn chiều sâu và có sự kết hợp hài hòa giữa các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đã tạo ra tính bao phủ toàn diện các đối tượng của KHCN.