Mối tương quan giữa vận dụng kế toán quản trị với thành quả của doanh nghiệp trên thế giới và Việt Nam
Đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới về vận dụng và lợi ích từ việc vận dụng kế toán quản trị tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn hạn chế những bằng chứng thực nghiệm chứng minh mối tương quan giữa kế toán quản trị và thành quả của doanh nghiệp. Các nghiên cứu về vận dụng kế toán quản trị tại Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến vận dụng kế toán quản trị tại doanh nghiệp, chưa đánh giá được thành quả doanh nghiệp đạt được từ việc vận dụng kế toán quản trị. Do đó, đây xem như một khe hổng, có thể tiếp tục bổ sung thêm các nghiên cứu trong tương lai nhằm góp phần khẳng định mối tương quan giữa việc vận dụng kế toán quản trị và thành quả doanh nghiệp.
Nghiên cứu về vận dụng kế toán quản trị
Tại những nước phát triển, nghiên cứu vận dụng kết toán quản trị (KTQT) trong doanh nghiệp (DN) nhận được sự quan tâm từ rất sớm. Tại Anh (Abdel-Kader và Luther, 2008; Al-Omiri và Drury, 2007), tại Australia (Abernethy và Guthrie, 1994; Baines và Langfield, 2003; Chenhall và Langfield, 1998b), các nghiên cứu chỉ ra KTQT truyền thống được các DN vận dụng thường xuyên hơn so với kỹ thuật đương đại. Tuy nhiên, vẫn có một số kỹ thuật đương đại được các DN đánh giá quan trọng như hệ thống thẻ điểm cân bằng (BSC) hoặc đo lường phi tài chính.
Tương tự, Chenhall và Langfield-Smith (1998a) tiến hành khảo sát 78 DN sản xuất tại Australia về mức độ vận dụng 42 kỹ thuật KTQT bao gồm cả truyền thống và đương đại. Kết quả cho thấy, tỷ lệ vận dụng KTQT truyền thống cao hơn so với công cụ đương đại, ngoại trừ những công cụ liên quan đến thông tin phi tài chính được vận dụng khá rộng rãi. Ngoài ra, Abdel-Kader và Luther (2008) chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ vận dụng KTQT bao gồm các nhân tố bên ngoài như môi trường bất định, quyền lực của khách hàng và các đặc điểm bên trong DN như chiến lược, cấu trúc và quy mô, hệ thống sản xuất phức tạp (JIT, TQM, AMT) có tác động đến mức độ tinh vi của bộ máy KTQT.
Bằng chứng về mức độ vận dụng KTQT truyền thống vượt trội hơn công cụ KTQT đương đại tiếp tục được tìm thấy từ kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả đến từ các nước đang phát triển như Philippines (Rufino, 2014), Malaysia (Smith và cộng sự, 2008; Ahmad, 2014), Indonesia (Jermias và Armitage, 2000; Prihastiwi và Sholihin, 2018).
Tuy nhiên, những lợi ích nhận được từ các công cụ quản trị đương đại khiến cho các DN có ý định vận dụng trong tương lai thay cho kỹ thuật truyền thống, đặc biệt là về đánh giá thành quả. Souza và Gasparetto (2020) nhận thấy, tỷ lệ vận dụng KTQT đương đại ra đời từ nửa sau của thế kỷ XX thấp hơn so với truyền thống bởi thiếu đi sự phổ biến mạnh mẽ đến các công ty và các nhà quản lý. Nghiên cứu cho rằng, việc vận dụng thấp KTQT đương đại có thể không chỉ liên quan đến bản thân đặc điểm hoạt động mà còn liên quan đến các đặc điểm của tổ chức áp dụng chúng hoặc môi trường vận dụng.
Qua các kết quả nghiên cứu cho thấy, các kỹ thuật KTQT đương đại đang ngày càng được các DN và các nhà nghiên cứu quan tâm, đặc biệt là trong bối cảnh các nước đang phát triển trong những năm gần đây.
Tác động của vận dụng kế toán quản trị đến thành quả doanh nghiệp
Thành quả DN được sự quan tâm rất lớn từ các nhà nghiên cứu về KTQT. Trong đó, có những nghiên cứu liên quan đến vận dụng đơn lẻ một kỹ thuật KTQT đến thành quả DN như Phornlaphatrachakorn (2019) nghiên cứu ảnh hưởng của dự toán ngân sách, Hoque và James (2000) đánh giá ảnh hưởng của vận dụng thẻ cân bằng điểm (BSC), Elhamma và Zhang (2013) chứng minh hệ thống chi phí dựa trên hoạt động (ABC) mang lại thành quả hoạt động tốt hơn cho DN tại Maroc.
Nhiều nghiên cứu nhận định rằng, sự phù hợp của hệ thống KTQT với chiến lược và môi trường kinh doanh của DN mới có thể giúp cải thiện thành quả của tổ chức. Cadez và Guilding (2008) chỉ ra rằng, các kỹ thuật KTQT phù hợp với chiến lược mà DN lựa chọn sẽ giúp cải thiện thành quả hoạt động của DN. Abdel Al và McLellan (2013) nhận xét, một tổ chức có sự phù hợp tốt giữa KTQT và chiến lược sẽ mang lại tác động tích cực và đáng kể đến thành quả hoạt động.
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu trên chỉ ra mối quan hệ trung gian của sự thay đổi hoặc vận dụng KTQT ảnh hưởng đến thành quả dưới áp lực cạnh tranh hoặc môi trường thay đổi mà chưa thấy được ảnh hưởng trực tiếp của vận dụng KTQT đến thành quả DN. Vì vậy, một số nghiên cứu đã đánh giá ảnh hưởng trực tiếp của việc vận dụng KTQT đến thành quả DN như Nuhu và cộng sự (2016) khảo sát 127 tổ chức và DN trong khu vực công tại Australia và sử dụng mô hình SEM trong nghiên cứu. Kết quả cho thấy, các DN vận dụng KTQT đương đại nhiều hơn sẽ mang lại những thay đổi tốt hơn. Maziriri (2017) sử dụng phương pháp hồi quy nghiên cứu 280 DN nhỏ và vừa tại Nam Phi về thành quả DN khi vận dụng KTQT, các kỹ thuật KTQT được chia thành 5 nhóm chức năng: hệ thống chi phí, ngân sách, đánh giá thành quả, thông tin hỗ trợ quyết định và phân tích chiến lược. Kết quả cho thấy, ảnh hưởng tích cực của việc vận dụng KTQT đến hoạt động DN nhỏ và vừa trong tỉnh Gauteng của Nam Phi, ngoại trừ nhóm thông tin hỗ trợ ra quyết định không có ý nghĩa thống kê bởi sự không phù hợp giữa mô hình ra quyết định hiện nay với DN quy mô nhỏ.
Ngược lại, một số nghiên cứu cho thấy, việc vận dụng KTQT không thực sự ảnh hưởng đến thành quả DN. Nghiên cứu của Asmilia và Sugiyarti (2020) điều tra 73 giám đốc ngân hàng trong khu vực Tangerang, Indonesia, kết quả cho thấy, vận dụng kỹ thuật KTQT chiến lược có ảnh hưởng tích cực đến lợi thế cạnh tranh, nhưng lại không có ý nghĩa trong mối qua hệ với thành quả trong các ngân hàng.
Có thể thấy, những kết quả nghiên cứu trái ngược mang đến những mâu thuẫn và sự bất định trong mối quan hệ giữa vận dụng KTQT và thành quả DN. Trong đó, sự khác biệt được nhận thấy chủ yếu tập trung tại thành quả phi tài chính trong DN. Điều này có thể giải thích bởi việc đánh giá thành quả DN trong những nghiên cứu về KTQT được nhìn nhận trên cả phương diện thành quả tài chính và phi tài chính. Thậm chí, nhiều nghiên cứu chủ yếu tập trung nhiều hơn vào thành quả phi tài chính. Bên cạnh đó, trong hầu hết nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ gián tiếp giữa vận dụng KTQT và thành quả DN, trong đó KTQT chủ yếu đóng vai trò trung gian như một công cụ phù hợp với chiến lược hoặc các nhân tố ngữ cảnh.
Kế toán quản trị và ảnh hưởng đến thành quả doanh nghiệp tại Việt Nam
Các công trình nghiên cứu về KTQT tại Việt Nam, đặc biệt là về tác động của KTQT đến thành quả vẫn còn hạn chế. Kết quả nghiên cứu chủ yếu là thống kê mô tả, tổng hợp kết quả nghiên cứu mà chưa có nhiều bằng chứng thực nghiệm từ nghiên cứu định lượng. Nghiên cứu về vận dụng KTQT trong DN có: Trần Anh Hoa (2003) nghiên cứu về phương hướng, nội dung và vận dụng KTQT trong các DN Việt Nam.
Kết quả chỉ ra thực trạng vận dụng KTQT còn nhiều hạn chế, đồng thời tác giả đề ra những nội dung cần thực hiện nhằm tăng tính khả thi trong việc vận dụng KTQT. Nghiên cứu của Phạm Ngọc Toàn (2010), Trần Ngọc Hùng (2016) khảo sát vận dụng KTQT cho các DN nhỏ và vừa tại Việt Nam. Kết quả cho thấy, các DN nhỏ ít quan tâm, thậm chí không biết đến KTQT. Từ đó, tác giả xây dựng nội dung, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng và đề xuất giải pháp giúp hỗ trợ các DN nhỏ và vừa tổ chức KTQT.
Tuy nhiên, nghiên cứu của Bui và cộng sự (2020) đánh giá mức độ vận dụng KTQT trong các DN nhỏ và vừa tại Việt Nam lại cho thấy, hầu hết DN Việt Nam đã và đang áp dụng KTQT. Các DN nhỏ thường áp dụng các kỹ thuật KTQT truyền thống trong khi các DN lớn sử dụng KTQT đương đại như chi phí dựa trên hoạt động, ngân sách dựa trên hoạt động, phân tích để ra quyết định, chi phí mục tiêu và lập kế hoạch chiến lược.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu về mối tương quan giữa vận dụng KTQT và thành quả DN tại Việt Nam vẫn còn hạn chế. Nghiên cứu của Đoàn Ngọc Phi Anh (2016) cho rằng, áp lực cạnh tranh và phân quyền quản lý khiến DN có xu hướng sử dụng KTQT chiến lược nhằm đạt được các thành quả về mặt tài chính và phi tài chính. Wang và Huynh (2014) sử dụng các thước đo ROA, ROE, chất lượng sản phẩm dịch vụ, sự hài lòng của khách hàng và đổi mới sản phẩm để đánh giá thành quả của các DN tại Việt Nam khi triển khai quản trị DN và KTQT trong DN.
Tran va Thao (2020) thông qua khảo sát các nhà quản lý từ 620 DN sản xuất tại TP. Hồ Chí Minh cho thấy, kết quả kinh doanh của DN sẽ được cải thiện nếu DN vận dụng tốt công cụ ABC. Tuy nhiên, thành quả DN trong các nghiên cứu trên không phải là đối tượng chủ yếu trong nghiên cứu và vấn đề đo lường thành quả cũng chưa được tác giả coi trọng. Ngoài ra, chủ đề thành quả DN trong điều kiện vận dụng KTQT tại Việt Nam thực sự còn hạn chế về các nghiên cứu và bằng chứng thực nghiệm. Đây có thể xem là một khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu và bổ sung tại Việt Nam.
Kết luận
Thông qua tổng quan các nghiên cứu về vận dụng KTQT và mối tương quan với thành quả DN có thể nhận thấy, mặc dù các nghiên cứu đều khẳng định rằng các công cụ KTQT truyền thống đã dần không còn đáp nhu cầu của DN trong điều kiện cạnh tranh hiện nay và được thay thế bởi những công cụ KTQT đương đại. Tuy nhiên, KTQT truyền thống đã và đang được sử dụng phổ biến hơn các công cụ đương đại và vẫn mang lại nhiều lợi ích dựa trên cảm nhận của nhà quản trị thông qua các kết quả nghiên cứu từ nhiều quốc gia.
Vì vậy, việc vận dụng kỹ thuật KTQT đương đại thay thế cho truyền thống có thực sự sẽ mang lại thành quả tốt cho doanh nghiệp hay sẽ chuyển biến theo chiều hướng ngược lại khi điều kiện không phù hợp cần tiếp tục được nghiên cứu làm rõ. Bên cạnh đó, việc đánh giá ảnh hưởng của vận dụng KTQT đến thành quả DN có xu hướng dịch chuyển nhiều hơn từ thành quả tài chính sang thành quả phi tài chính nhằm có cái nhìn toàn diện về thành quả DN. Điều này mang đến những mâu thuẫn và sự bất định trong mối quan hệ giữa vận dụng KTQT và thành quả DN được thấy từ nhiều kết quả nghiên cứu, đặc biệt sự khác biệt này được nhìn nhận nhiều hơn ở những thành quả phi tài chính trong DN.
Ngoài ra, KTQT trong mối quan hệ với thành quả chủ yếu đóng vai trò trung gian như một công cụ phù hợp với chiến lược hoặc các nhân tố ngữ cảnh trong hầu hết các nghiên cứu, mà thiếu đi các nghiên cứu thực nghiệm cụ thể về tác động của vận dụng KTQT đến thành quả DN, đặc biệt là ở những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Vì vậy, đây có thể xem như một khe hổng có thể tiếp tục bổ sung thêm các nghiên cứu trong tương lai nhằm góp phần khẳng định thêm cho mối tương quan giữa việc vận dụng KTQT và thành quả DN.
Tài liệu tham khảo:
- Hoa, T. A. (2003). Xác lập nội dung và vận dụng kế toán quản trị vào các doanh nghiệp Việt Nam. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh;
- Hùng, T. N. (2016). Các nhân tố tác động đến việc vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh;
- Toàn, P. N. (2010). Xây dựng nội dung và tổ chức kế toán quản trị cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam: Luận án tiến sĩ Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh;
- Tran, T., & Thao, N. (2020). Factors affecting the application of ABC costing method in manufacturing firms in Vietnam. Management Science Letters;
- Wang, D. H.-M., & Huynh, Q. L. (2014). Linkages among corporate governance, management accounting practice and organizational performance: Evidence from a southeast asian country. Romanian Economic Business Review;
- Abdel-Kader, M., & Luther, R. (2008). The impact of firm characteristics on management accounting practices: A UK-based empirical analysis. The British Accounting Review;
- Anh, D. N. P. (2016). Factors Affecting the Use and Consequences of Management Accounting Practices in A Transitional Economy: The Case of Vietnam. Journal of Economics Development;
- Asmilia, N., & Sugiyarti, L. (2020). Managerial Performance: The Mediating Role of Strategy Management Accounting Techniques on Competitive Advantage and Organization Performance. Economics and Accounting Journal.