Chính sách bảo hiểm tiền gửi:
Một số nội dung cơ bản người gửi tiền nên biết
Mục đích cơ bản và cốt lõi của chính sách bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, đối tượng có những hạn chế nhất định trong việc tiếp cận thông tin về hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi. Để được pháp luật bảo vệ tốt nhất, người gửi tiền cần biết những nội dung cơ bản về BHTG. Mời độc giả cùng tìm hiểu những thông tin này.
Nhiều người gửi tiền thắc mắc khi nào Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm? Phí bảo hiểm tiền gửi do đối tượng nào đóng?
Điều 22 Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định: “Nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm phát sinh kể từ thời điểm Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng (TCTD) là tổ chức tham gia BHTG vẫn lâm vào tình trạng phá sản hoặc NHNN có văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài là tổ chức tham gia BHTG mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền”.
Khoản 3, Điều 12, Luật BHTG quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức tham gia BHTG như sau: “Nộp phí BHTG đầy đủ và đúng thời hạn”.
Như vậy tổ chức tham gia BHTG là đối tượng chịu trách nhiệm đóng phí BHTG, người gửi tiền không phải nộp phí BHTG.
Đối với khoản tiền tiết kiệm trực tuyến, người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng cần phải làm gì để chứng minh quyền sở hữu hợp pháp của mình đối với khoản tiền gửi của mình trong quá trình làm thủ tục nhận tiền bảo hiểm?
Khoản 3, Điều 6, Quy chế chi trả tiền gửi được bảo hiểm được ban hành kèm theo Quyết định số 807/QĐ-BHTG ngày 19/10/2016 của Hội đồng quản trị BHTGVN quy định trách nhiệm của tổ chức tham gia BHTG là: “Cung cấp đầy đủ hồ sơ, sổ sách, chứng từ và các văn bản, tài liệu có liên quan đến danh sách người được BHTG và số tiền bảo hiểm đề nghị chi trả theo yêu cầu của BHTGVN để phục vụ công tác kiểm tra và chi trả. Cung cấp cho người được BHTG giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hợp pháp đối với các khoản tiền gửi được bảo hiểm khi có yêu cầu; xác nhận cho người được BHTG khi sổ tiền gửi bị mất, rách nát, chắp vá không rõ ràng và các trường hợp cần thiết khác. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực và chính xác của các tài liệu cung cấp.”
Tiền gửi nào được bảo hiểm?
Điều 18, Luật BHTG quy định: “Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức tham gia BHTG dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức tiền gửi khác theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, trừ các loại tiền gửi quy định tại Điều 19 của Luật này”.
Vậy, tất cả các loại tiền gửi cá nhân phù hợp với quy định nêu trên đều là tiền gửi được bảo hiểm.
Như vậy, khi BHTGVN thực hiện kiểm tra và chi trả bảo hiểm, tổ chức tham gia BHTG có trách nhiệm cung cấp đầy đủ hồ sơ, sổ sách, chứng từ và các văn bản, tài liệu có liên quan đến danh sách người được BHTG. Bên cạnh đó, người được BHTG cũng có quyền yêu cầu tổ chức tham gia BHTG cung cấp giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hợp pháp đối với các khoản tiền gửi được bảo hiểm của mình.
Người gửi tiền tại ngân hàng A (có tham gia bảo hiểm tiền gửi), sau đó dùng thẻ tiết kiệm tại ngân hàng A cầm cố tại ngân hàng B. Khi ngân hàng A được cơ quan chức năng xác định là mất khả năng chi trả hoặc phá sản thì người gửi tiền nói trên có được chi trả tiền bảo hiểm không?
Sau khi NHNN có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng là tổ chức tham gia BHTG vẫn lâm vào tình trạng phá sản hoặc NHNN có văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài là tổ chức tham gia BHTG mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền, người gửi tiền nói trên được chi trả tiền bảo hiểm khi có đủ các điều kiện:
- Có tên trong danh sách người được BHTG tại ngân hàng A và số tiền bảo hiểm đã được BHTGVN xác nhận.
- Xuất trình đủ các giấy tờ xác định về nhân thân và quyền sở hữu của mình đối với các khoản tiền gửi tại ngân hàng đó.
Khi đó, số tiền gửi được bảo hiểm được xác định theo quy định hiện hành của pháp luật về BHTG và không phải khấu trừ khoản nợ gốc và lãi của họ tại ngân hàng khác.