Một số vấn đề cần cấp thiết đổi mới trong thể chế kinh tế ở nước ta hiện nay
Đại hội XI của Đảng (năm 2011) xác định hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong ba đột phá chiến lược phải tập trung thực hiện.
Đại hội XII của Đảng (năm 2016) đề ra nhiệm vụ phải tiếp tục thực hiện tốt đột phá chiến lược này, trong đó tập trung vào giải quyết một số vấn đề lớn đang gây khó khăn, cản trở sự phát triển, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, sự phát triển nhanh, bền vững của nền kinh tế đất nước.
Theo chúng tôi, những vấn đề cần cấp thiết đổi mới trong thể chế kinh tế ở nước ta hiện nay là:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế phân bổ nguồn lực để các nguồn lực, nhất là các nguồn lực của Nhà nước được huy động và sử dụng có hiệu quả cao.
Ở nước ta, trong nhiều năm qua nhiều nguồn lực được huy động, phân bổ, sử dụng không hợp lý, kém hiệu quả, thất thoát, lãng phí lớn làm cho kết quả đạt được không tương xứng với tiềm năng, nguồn lực huy động; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, sự phát triển của đất nước thiếu bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Sự manh mún đất sản xuất nông nghiệp giao cho hộ kéo dài suốt 30 năm qua (từ “khoán 100” năm 1981, “khoán 10” năm 1988), thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích, thúc đẩy tích tụ, tập trung đã cản trở phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn.
Quản lý đất ở các nông, lâm trường lỏng lẻo, đất đai bị xâm lấn, mua bán, chuyển đổi mục đích sử dụng không kiểm soát được; hiệu quả sử dụng rất thấp, kéo dài nhiều năm nhưng chậm có giải pháp xử lý.
Việc điều chỉnh quy hoạch, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, giao đất cho xây dựng các khu đô thị, giao mỏ cho doanh nghiệp khai thác khoáng sản, kể cả việc khai thác cát trên sông... bằng các quyết định hành chính, không qua đấu thầu đã gây thất thoát lớn tài sản nhà nước, ô nhiễm môi trường, tổn hại đến lợi ích của nhân dân, làm giàu cho một số người một cách nhanh chóng, gây bức xúc xã hội, làm tha hóa đội ngũ cán bộ, công chức, suy giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.
Để tình hình này xảy ra, kéo dài có nguyên nhân từ thể chế kinh tế, trong đó cơ chế thị trường bị làm méo mó bởi cơ chế “xin - cho”, bởi những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng và thực thi luật pháp, cơ chế chính sách, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; sự yếu kém về năng lực, sự xuống cấp về đạo đức, sự chi phối của “lợi ích nhóm” trong đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan quản lý nhà nước. Để nguồn lực đất đai được phân bổ hợp lý, sử dụng có hiệu quả phải khắc phục được những yếu kém này.
Thiếu vốn cũng là một trở ngại lớn, khó khăn lớn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các hộ, các doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Thiếu vốn có nguyên nhân do trình độ phát triển, năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế còn thấp và có nguyên nhân do chi phí cho hoạt động của bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở ngày càng lớn, phần ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển ngày càng nhỏ (đến nay, phần lớn đầu tư từ ngân sách là dựa vào vốn vay); trong khi việc huy động các nguồn vốn xã hội cho đầu tư còn nhiều trở ngại, vướng mắc. Hơn nữa, nguồn vốn cho sản xuất, kinh doanh, cho đầu tư phát triển đó lại phân bổ không hợp lý, sử dụng kém hiệu quả.
Đây là điều rất đáng lo ngại. Tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, thời gian thực hiện dự án kéo dài, nhiều lần xin điều chỉnh, bổ sung vốn; tổng kinh phí và suất đầu tư tăng cao nhưng chất lượng công trình thấp, để lại hậu quả và ảnh hưởng xấu tới hiệu quả khai thác, sử dụng. Tiêu cực, thất thoát, lãng phí trong lĩnh vực này là rất lớn, để lại hậu quả rất nặng nề.
Tình trạng này xảy ra và kéo dài cũng có nguyên nhân từ thể chế kinh tế, từ những “lỗ hổng” trong luật pháp, cơ chế, chính sách quản lý đầu tư; sự lỏng lẻo trong quản lý tài chính, ngân sách nhà nước; chất lượng thấp của công tác xây dựng, thẩm định các quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, các dự án đầu tư; yếu kém của việc kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện; cơ chế “xin - cho”, quan hệ thân hữu, “lợi ích nhóm” và sự suy thoái về đạo đức trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức ở các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan...
Vốn tín dụng ngân hàng có vai trò rất lớn trong sản xuất, kinh doanh, hoạt động của doanh nghiệp, nhưng việc phân bổ hợp lý nguồn vốn để sử dụng có hiệu quả còn nhiều vấn đề mà nguyên nhân cũng là từ thể chế kinh tế.
Các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân lớn có nhiều cơ hội nhận được các khoản vay lớn, trong khi các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp nền tảng, chế tạo, chế biến rất cần vốn vay thì việc vay vốn lại rất khó khăn.
Đảng, Nhà nước ta đã xác định phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực để phát triển đất nước. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện chủ trương này chậm chạp, lúng túng, kết quả đạt được rất hạn chế.
Trình độ phát triển, tiềm lực khoa học - công nghệ của đất nước, của các ngành, lĩnh vực, của hầu hết các doanh nghiệp trong nước đều còn thấp; đóng góp của khoa học - công nghệ vào tăng trưởng và hiệu quả kinh tế còn hạn chế, chuyển biến chậm.
Chất lượng giáo dục - đào tạo, nhất là giáo dục đại học còn thấp, cơ cấu đào tạo không phù hợp với yêu cầu của xã hội, hàng trăm nghìn sinh viên tốt nghiệp đại học không được tuyển dụng, không có việc làm theo chuyên ngành và trình độ được đào tạo, những người được tuyển dụng thì đa phần phải đào tạo lại; Đào tạo nghề phát triển chậm, không đáp ứng được yêu cầu tiềm lực khoa học - công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực thấp là cản trở lớn đối với sự phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Tình hình đó cũng có nguyên nhân quan trọng là do lúng túng và chậm đổi mới cơ chế, chính sách quản lý khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo (ngay chủ trương đúng đắn chuyển các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học sang cơ chế tự chủ cũng triển khai thực hiện rất chậm); chậm đổi mới cơ chế, chính sách gắn kết hoạt động nghiên cứu, đào tạo với thực tiễn, với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; gắn kết viện nghiên cứu, trường đại học, trường dạy nghề với doanh nghiệp và tạo động lực (và áp lực) để các doanh nghiệp tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới công nghệ sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, lành mạnh, thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động, phát triển.
Một trong những kết quả quan trọng nhất của công cuộc đổi mới ở nước ta hơn 30 năm qua là đường lối đổi mới của Đảng đã tạo ra môi trường, điều kiện thuận lợi, khuyến khích, thúc đẩy sự ra đời và phát triển của lực lượng đông đảo các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Đây là lực lượng chủ công, nòng cốt trực tiếp tạo ra tăng trưởng GDP, sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ cho tiêu dùng trong nước và cho xuất khẩu, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, việc làm và thu nhập cho người lao động, lực lượng đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Tuy nhiên, đến nay doanh nghiệp Việt Nam phần lớn có quy mô nhỏ, vốn ít, dựa chủ yếu vào vốn vay ngân hàng, công nghệ lạc hậu, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp. Số lượng doanh nghiệp tư nhân còn ít, không ổn định. Trong nhiều năm gần đây, hằng năm số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động tương đương số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới.
Doanh nghiệp tập trung nhiều ở lĩnh vực thương mại, dịch vụ, bất động sản, ít đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, nhất là công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao. Nhiều doanh nghiệp không có chiến lược phát triển lâu dài và cũng chỉ có rất ít doanh nghiệp vươn ra đầu tư, kinh doanh được ở nước ngoài.
Doanh nghiệp nhà nước được đổi mới, cổ phần hóa, cơ cấu lại, đã giảm bớt về số lượng, chỉ còn tập trung ở một số lĩnh vực cần thiết, quan trọng. Tuy nhiên, mặc dù nắm giữ một tài sản lớn, được hưởng nhiều ưu đãi, nhưng hiệu quả hoạt động thấp, không tương xứng với tài sản nắm giữ và ưu đãi được hưởng. Nhiều doanh nghiệp còn rất khó khăn, nợ nần lớn, tồn tại và hoạt động được là nhờ cơ chế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước.
Sự yếu kém của doanh nghiệp trong nước làm cho doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong nhiều lĩnh vực, như chiếm 70% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 70% giá trị hàng hóa xuất khẩu; trong đó sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp công nghệ cao của Việt Nam chủ yếu là của các doanh nghiệp FDI, mà phần lớn cũng chỉ là lắp ráp, giá trị gia tăng thấp.
Sự liên kết, tác động lan tỏa công nghệ cao của các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. Các hợp tác xã, tổ chức kinh tế tập thể trong các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực nông nghiệp, hoạt động khó khăn, lúng túng, phát triển chậm, tác dụng kết nối hỗ trợ tạo thuận lợi cho kinh tế hộ hoạt động còn rất hạn chế.
Những hạn chế, yếu kém của lực lượng doanh nghiệp cũng có nguyên nhân từ những hạn chế, yếu kém của môi trường đầu tư kinh doanh, của thể chế kinh tế. Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách thiếu đồng bộ, chồng chéo, thiếu ổn định, công khai, minh bạch; luật pháp bảo vệ quyền sở hữu tài sản chưa rõ ràng; giải thích và áp dụng luật pháp thiếu thống nhất, thiếu nhất quán, gây ra rất nhiều khó khăn, rủi ro cho doanh nghiệp.
Các thủ tục hành chính về đăng ký kinh doanh, lao động, bảo hiểm xã hội, về kê khai thuế, nộp thuế, xuất, nhập khẩu hàng hóa... phức tạp, làm mất nhiều thời gian, công sức, chi phí của doanh nghiệp. Việc quản lý, điều hành bằng mệnh lệnh, chỉ đạo bằng văn bản hành chính của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho từng trường hợp cụ thể tạo ra cơ chế “xin - cho”, làm tăng thêm tính không nhất quán, thiếu công bằng, tạo cơ hội cho tham nhũng, tiêu cực.
Các hoạt động thanh tra, kiểm tra chồng chéo của các cơ quan chức năng, sự nhũng nhiễu của cán bộ, công chức suy thoái về phẩm chất đạo đức gây ra rất nhiều phiền hà đối với doanh nghiệp, đặc biệt là đối với doanh nghiệp tư nhân.
Đối với doanh nghiệp nhà nước, việc đổi mới, cơ cấu lại chậm, không đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra là do thiếu kiên quyết, thiếu cơ chế để xử lý những hạn chế, yếu kém, những thua lỗ, nợ nần kéo dài của doanh nghiệp; không phá sản được những doanh nghiệp đã thực sự phá sản.
Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước chủ yếu mới là cổ phần hóa, sắp xếp lại một số doanh nghiệp. Việc đổi mới cơ chế quản lý còn chậm, lúng túng. Cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước sau khi đã được cơ cấu lại (doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và vốn nhà nước trên 50%) về cơ bản vẫn như cũ.
Vấn đề xóa bỏ vai trò chủ quản, đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp của các bộ còn lúng túng, ngập ngừng bởi chưa xác định được sau đó thì cơ quan nào sẽ là đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp; vai trò, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của hội đồng quản trị doanh nghiệp như thế nào; cơ chế nào để không biến độc quyền của Nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp; làm sao để doanh nghiệp nhà nước thật sự bình đẳng với các doanh nghiệp ngoài nhà nước trong mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh,...
Những hạn chế, yếu kém của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân rất quan trọng vẫn là do cơ chế, chính sách của chúng ta.
Chẳng hạn, nhiều tập đoàn ô-tô lớn trên thế giới, như Toyota, Honda, Ford,... đã đầu tư vào sản xuất ô-tô ở Việt Nam từ nhiều năm trước đến nay vẫn chủ yếu là lắp ráp, tỷ lệ nội địa hóa thấp. Nguyên nhân của tình hình này là do luật pháp, cơ chế, chính sách của chúng ta, như chính sách thuế và chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ, cạnh tranh giữa các địa phương trong thu hút đầu tư,...
Hay tình trạng trốn thuế và gây ô nhiễm môi trường của không ít doanh nghiệp FDI cũng là do sự yếu kém trong quản lý và công tác giám sát của các cơ quan chức năng. Còn sự yếu kém, lúng túng trong hoạt động và phát triển chậm chạp của các hợp tác xã, các tổ chức kinh tế tập thể là do thiếu hướng dẫn, thiếu các chính sách hỗ trợ dẫn đến phát triển một cách tự phát.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế phát triển, vận hành thông suốt, phát huy đầy đủ vai trò của các thị trường và các yếu tố thị trường.
Trong những năm qua, đường lối đổi mới, những thay đổi trong thể chế kinh tế đã tạo điều kiện cho sự ra đời, phát triển của hệ thống các thị trường, phát huy vai trò của các yếu tố thị trường. Những kết quả này đã đóng góp vào thành tựu chung của đất nước.
Tuy nhiên, các yếu tố thị trường, hệ thống các thị trường chưa hoàn thiện, trình độ phát triển thấp, vận hành còn nhiều vướng mắc, đã làm méo mó cơ chế thị trường, ảnh hưởng tới việc phân bổ hợp lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tới hoạt động và phát triển của doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Giá cả nhiều hàng hóa, dịch vụ quan trọng, như giá điện, xăng dầu, dịch vụ y tế, giáo dục... vẫn do Nhà nước quy định, chưa theo cơ chế giá thị trường. Những giá này, một mặt, đưa vào giá thành cả những chi phí bất hợp lý, chi phí do tổ chức bộ máy cồng kềnh, đội ngũ cán bộ, công nhân viên, người lao động quá đông, máy móc, thiết bị, cơ sở vật chất lạc hậu, quản lý kém; mặt khác, tạo ra sự bao cấp tràn lan cho nhiều đối tượng, trong đó có những đối tượng không nên bao cấp.
Điều này vừa gây lãng phí, sử dụng không hiệu quả các nguồn lực xã hội, vừa không tạo được động lực để doanh nghiệp và đơn vị sự nghiệp công đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của mình.
Lãi suất ngân hàng, cả lãi suất huy động tiền gửi và lãi suất cho vay, chưa được tự do hóa, chưa phản ánh đúng quan hệ cung - cầu, mức độ khan hiếm vốn trên thị trường. Lãi suất cho vay cao hơn nhiều chỉ số lạm phát cơ bản trong nước và mức lãi suất cho vay ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới bởi phải bao gồm những chi phí không hợp lý do yếu kém của công tác quản lý, trích lập quỹ dự phòng rủi ro cho khoản nợ xấu lớn chưa được xử lý...
Tạo lập được môi trường cạnh tranh là một trong những kết quả của công cuộc đổi mới kinh tế. Tuy nhiên, đến nay cạnh tranh trong nền kinh tế vẫn gặp những trở ngại do việc biến độc quyền nhà nước thành độc quyền của doanh nghiệp trong một số lĩnh vực (điện, xăng dầu...); do cơ chế “xin - cho”, chính sách ưu tiên, tạo thuận lợi trong tiếp cận các nguồn lực cho đối tượng này so với đối tượng khác; việc chỉ đạo bằng mệnh lệnh hành chính trong từng vụ, việc cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền; do các hoạt động buôn lậu, trốn lậu thuế, làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, do những chi phí không chính thức, nhũng nhiễu của cán bộ quản lý đối với doanh nghiệp...
Thị trường quyền sử dụng đất còn rất kém phát triển. Có quá nhiều văn bản pháp luật, từ luật, nghị định, thông tư, hướng dẫn về đất đai chồng chéo, thiếu ổn định, thiếu nhất quán, thậm chí mâu thuẫn nhau; các quy hoạch sử dụng đất chất lượng thấp, thường xuyên thay đổi, điều chỉnh, bổ sung... làm cho việc thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất khó khăn, vướng mắc. Thiếu những tổ chức có uy tín, có năng lực để xác định giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Có rất nhiều loại “giá đất” do Nhà nước quy định, thực hiện cho các đối tượng khác nhau nhưng thường đều khác xa giá chuyển nhượng trên thị trường. Cơ chế “xin - cho” rất phổ biến, rất nặng nề trong lĩnh vực này. Thị trường bất động sản phát triển tự phát, cung vượt cầu, nhiều hoạt động mang tính đầu cơ, chiếm dụng nguồn vốn lớn của xã hội, tác động xấu đến nền kinh tế. Điều này gây nhiều tác động, hậu quả tiêu cực, phức tạp cả về kinh tế và xã hội.
Thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm quy mô còn nhỏ, hàng hóa còn ít, đơn giản, cơ cấu không hợp lý. Trên thị trường vốn, thị trường chứng khoán có sự mất cân đối giữa cổ phiếu và trái phiếu; thị trường cổ phiếu và trái phiếu (thị trường chứng khoán) phát triển chưa tương xứng với thị trường tiền tệ, tín dụng.
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò chủ yếu trong việc đáp ứng yêu cầu vốn của doanh nghiệp, vốn doanh nghiệp huy động được trên thị trường chứng khoán còn rất hạn chế, trong khi năng lực của các ngân hàng có hạn, cơ cấu tín dụng bị mất cân đối về kỳ hạn, ý thức tuân thủ pháp luật yếu làm tăng tính rủi ro thanh khoản của các ngân hàng và mất ổn định của nền kinh tế.
Thị trường lao động phát triển chậm, tự phát, bị chia cắt giữa các vùng, quy mô nhỏ, thông tin thị trường hạn chế, tỷ lệ lao động tham gia thị trường lao động chính thức còn thấp. Quan hệ cung - cầu về lao động trên thị trường về nhiều đối tượng lao động mất cân đối (thiếu lao động có trình độ, tay nghề cao, thừa lao động không có tay nghề, chuyên môn thấp). Nhiều thỏa ước lao động giữa người lao động với người sử dụng lao động còn mang tính hình thức...
Thị trường khoa học - công nghệ quy mô nhỏ, hàng hóa ít, ít người tham gia cả về phía cung (các viện nghiên cứu, các trường đại học, các doanh nghiệp lớn) và phía cầu (các doanh nghiệp có yêu cầu đổi mới công nghệ).
Quyền sở hữu trí tuệ còn bị vi phạm. Các hoạt động tư vấn chuyển giao công nghệ, giám định, định giá công nghệ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ còn sơ khai.
Thị trường hàng hóa, dịch vụ tuy phát triển mạnh hơn các thị trường khác, nhưng vẫn phân tán, manh mún, bị chia cắt, thị trường truyền thống vẫn chiếm tỷ trọng lớn, các tổ chức thương mại hiện đại, kênh phân phối hiện đại còn ít, tập trung ở các thành phố lớn. Hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong nước chất lượng, sức cạnh tranh thấp, bị hàng hóa dịch vụ nước ngoài cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Thứ tư, hoàn thiện thể chế tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước, phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường.
Trong mọi mô hình kinh tế thị trường đã và đang tồn tại trên thế giới, cùng với cơ chế thị trường đều cần có vai trò của nhà nước. Vai trò rất quan trọng của nhà nước là xây dựng, hoàn thiện và thực thi luật pháp, cơ chế chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức... bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh; bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định xã hội, bảo vệ môi trường, khắc phục những khiếm khuyết của cơ chế thị trường.
Đối với nước ta, nền kinh tế thị trường ra đời và phát triển trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng nhằm phá bỏ cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp (trong nền kinh tế đó, Nhà nước làm tất cả: vừa quản lý nhà nước nền kinh tế, vừa làm thay việc quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, quyết định đầu vào, đầu ra, cung cấp vật tư, lựa chọn phương án sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp), vì vậy đổi mới vai trò, phương thức quản lý kinh tế của Nhà nước đến đâu thì các yếu tố thị trường, cơ chế thị trường mới có điều kiện phát triển đến đó. Các kết quả xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta những năm vừa qua đều gắn liền với các kết quả đổi mới vai trò, phương thức quản lý kinh tế của Nhà nước và ngược lại.
Hoàn thiện thể chế đối với lĩnh vực quản lý nhà nước về kinh tế đòi hỏi phải nâng cao chất lượng xây dựng và thực thi luật pháp, cơ chế chính sách, xây dựng và thực thi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế để phân bổ các nguồn lực hợp lý, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, phát triển các thị trường và yếu tố thị trường, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển, hoạt động có hiệu quả.
Trong đó, cần đổi mới, nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của Quốc hội trong việc xây dựng pháp luật. Thay vì Quốc hội chỉ thảo luật, thông qua các dự thảo luật thì các ủy ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội phải chuẩn bị dự thảo luật với các điều khoản cụ thể, có thể áp dụng ngay được, hạn chế việc phải chờ Chính phủ, các bộ ban hành nghị định, thông tư hướng dẫn mới được thực hiện.
Hoàn thiện thể chế đối với lĩnh vực quản lý kinh tế của Nhà nước đồng thời đòi hỏi phải đổi mới cơ chế quản lý ngân sách nhà nước, đổi mới chính sách để thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, đổi mới cơ chế phân cấp và chức năng kinh tế của chính quyền địa phương.
Quản lý ngân sách nhà nước hiện nay quá lỏng lẻo. Dự toán thu, chi ngân sách nhà nước hằng năm đều được Quốc hội phê duyệt, nhưng khi thực hiện, chi luôn vượt dự toán nhưng cũng vẫn được Quốc hội cho quyết toán thông qua, bội chi ngân sách kéo dài nhiều năm.
Cần đổi mới thể chế để tăng cường kỷ luật ngân sách, nâng cao vai trò, trách nhiệm của Quốc hội trong quản lý, giám sát thu, chi ngân sách nhà nước tới từng mục thu, từng khoản chi cho các dự án đầu tư, từng bước giảm bội chi, tiến tới bảo đảm cân đối thu chi ngân sách (có thể chấp nhận bội chi ngân sách cho đầu tư phát triển khi thật sự cần thiết).
Trong bối cảnh thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (hay 4.0), thời cơ và thách thức đặt ra với nước ta đều rất lớn. Việc hoàn thiện thể chế kinh tế để thực hiện mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại trở thành yêu cầu cấp thiết. Đất nước ta đã và đang hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu.
Điều đó đã tạo ra điều kiện tham gia xây dựng các định chế kinh tế khu vực và toàn cầu, mở rộng thị trường, được hưởng các ưu đãi trong xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu hút vốn đầu tư (cả trực tiếp và gián tiếp), khoa học - công nghệ tiên tiến từ bên ngoài vào phát triển kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, hiện nay việc đổi mới thể chế kinh tế để nâng cao sức cạnh tranh, chất lượng, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong nước còn chậm so với tốc độ hội nhập; việc thiếu kinh nghiệm, thiếu chủ động trong việc xây dựng các rào cản không trái với các cam kết quốc tế để bảo vệ thị trường và doanh nghiệp trong nước trước những tác động tiêu cực từ bên ngoài làm cho các doanh nghiệp trong nước nói riêng, toàn bộ nền kinh tế đất nước nói chung chưa tận dụng có hiệu quả các cơ hội, đồng thời đứng trước những thách thức ngày càng lớn do hội nhập quốc tế tạo ra.
Việc hoàn thiện thể chế kinh tế cần phải hướng vào khắc phục được những hạn chế này, nâng cao hơn nữa hiệu quả của hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Phân cấp cho địa phương trong quản lý kinh tế đã đem lại nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, việc phân cấp quản lý cho địa phương trong khi chiến lược, quy hoạch phát triển của nền kinh tế nói chung, của các ngành, lĩnh vực nói riêng chất lượng còn thấp, kỷ luật, kỷ cương thực hiện không nghiêm, cơ chế kiểm tra, giám sát của Trung ương lỏng lẻo,... biến địa phương thành nền kinh tế khép kín; các định hướng liên kết vùng để phân công, phối hợp, phát huy tiềm năng, thế mạnh của cả vùng không thực hiện được, làm ảnh hưởng đến hiệu quả chung của kinh tế đất nước. Đây là vấn đề mà việc hoàn thiện thể chế kinh tế phải giải quyết.
Thứ năm, để nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước, thực hiện được các nội dung, yêu cầu nêu trên đòi hỏi phải đổi mới tổ chức bộ máy các cơ quan Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, các cơ quan chính quyền địa phương theo hướng tinh, gọn; rà soát chức năng, nhiệm vụ, khắc phục tình trạng chồng chéo, không rõ ràng, không phù hợp với kinh tế thị trường; tách chức năng quản lý nhà nước đối với nền kinh tế và chức năng chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp (giao cho một cơ quan chuyên trách thực hiện), chức năng xây dựng luật pháp, cơ chế chính sách và chức năng cung cấp dịch vụ công (có thể xã hội hóa, nhiều đối tượng có thể tham gia thực hiện); tiếp tục đẩy mạnh việc cải cách các thủ tục hành chính; xác định rõ và nâng cao trách nhiệm cá nhân của từng vị trí cán bộ, công chức, nhất là của người đứng đầu cơ quan, đơn vị; tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật kỷ cương; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân; cải cách chính sách tiền lương, bảo đảm cuộc sống và vị thế được tôn trọng của cán bộ, công chức; đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”