Năm 2016 xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 32,1 tỷ USD
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kim ngạch xuất khẩu (XK) nông lâm thủy sản tháng 12 năm 2016 ước đạt 2,97 tỷ USD đưa tổng giá trị XK năm 2016 đạt 32,1 tỷ USD, tăng 5,4% so với năm 2015.
Trong đó, giá trị XK các mặt hàng nông sản chính ước đạt 15,1 tỷ USD, tăng 7,9% so với năm 2015; Giá trị XK các mặt hàng thủy sản ước đạt 6,99 tỷ USD, tăng 6,4% so với năm 2015; Giá trị XK các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 7,23 tỷ USD, tăng 0,3% so với năm 2015.
Trong năm, XK hầu hết các mặt hàng nông sản tăng cả về số lượng và giá trị. Trong đó, mặt hàng cà phê, hạt điều, hạt tiêu là những điểm sáng của XK nông sản trong năm 2016.
Cụ thể, đối với mặt hàng cà phê, XK cà phê trong tháng 12/2016 ước đạt 158 nghìn tấn với giá trị đạt 348 triệu USD, đưa khối lượng XK cà phê năm 2016 đạt 1,79 triệu tấn và 3,36 tỷ USD, tăng 33,6% về khối lượng và tăng 25,6% về giá trị so với năm 2015.
Giá cà phê XK bình quân 11 tháng đầu năm 2016 đạt 1.840 USD/tấn, giảm 8,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong năm qua.
Đứng thứ 2 là hạt điều, khối lượng XK hạt điều tháng 12/2016 ước đạt 26 nghìn tấn với giá trị 239 triệu USD, đưa khối lượng XK hạt điều năm 2016 đạt 347 nghìn tấn và 2,84 tỷ USD, tăng 5,6% về khối lượng và tăng 18,4% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá hạt điều XK bình quân 11 tháng đầu năm 2016 đạt 8.118 USD/tấn, tăng 11,3% so với cùng kỳ năm 2015. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hà Lan vẫn duy trì là 3 thì trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam chiếm thị phần lần lượt là 34,1%, 14,9% và 13,3% tổng giá trị XK hạt điều.
Tiếp theo là hạt tiêu, với khối lượng XK cả năm 2016 đạt 177 nghìn tấn và 1,42 tỷ USD, tăng 34,3% về khối lượng và 12,9% về giá trị. Các thị trường có giá trị XK tăng mạnh là Pakixtan (gấp 3,14 lần), Philippin (gấp 3 lần), Hoa Kỳ (31,3%), Ai Cập (23,2%), Tây Ban Nha (14%) và Ấn Độ (12%).
Cùng với cà phê, hạt tiêu và hạt điều, XK cao su năm 2016 cũng có sự gia tăng cả về khối lượng và giá trị với mức tăng tương ứng là 10,6% và 9% so với cùng kỳ năm 2015. XK chè năm 2016 đạt 134 nghìn tấn và 223 triệu USD, tăng 7,3% về khối lượng và 4,9% về giá trị.
Trong số các mặt hàng XK, gạo, sắn và các sản phẩm sắn là những mặt hàng có kim ngạch XK giảm cả khối lượng và giá trị. Cụ thể, đối với mặt hàng gạo, năm 2016 XK ước đạt 4,88 triệu tấn và 2,2 tỷ USD, giảm 25,8% về khối lượng và giảm 21,2% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Mặt hàng sắn và các sản phẩm sắn năm 2016 đạt 3,66 triệu tấn và 994 triệu USD, giảm 12,3% về khối lượng và giảm 24,6% về giá trị so với năm 2015. Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu chính mặt hàng này, chiếm tới 86,4% thị phần, XK sắn và sản phẩm sắn sang thị trường này trong năm 2016 giảm 13,3% về khối lượng và giảm 26,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015.
Cũng theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kim ngạch nhập khẩu toàn ngành ước đạt 24,5 tỷ USD, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, trong cả năm 2016, toàn ngành nông nghiệp xuất siêu 7,6 tỷ USD.