Nâng giá trị xuất khẩu gạo!
Xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2018 được dự báo sẽ tăng trưởng tốt. Nhưng điều quan trọng không nằm ở thành tích đứng đầu thế giới về số lượng, mà là cần tiếp tục giảm mạnh xuất khẩu ở phân khúc gạo cấp trung bình, cấp thấp và tăng mạnh dòng gạo cao cấp, các loại gạo chất lượng cao, giá trị cao. Sự liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân cũng cần chặt chẽ hơn.
Những tín hiệu lạc quan trong tháng đầu của năm 2018 đang được kỳ vọng về một năm tăng trưởng tốt cho xuất khẩu gạo của Việt Nam để thu về kim ngạch hơn 2,5 tỷ USD như đã đạt được trong năm 2017. Nhờ cải thiện về chất lượng, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam hiện cao hơn gạo của Thái Lan, Ấn Độ từ 100 – 150 USD/tấn.
Chuyển dịch tích cực
Về thị trường, giới chuyên gia nhận định trong năm nay, gạo xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng lên chủ yếu nhờ nhu cầu ở Đông Nam Á, nhất là tại Philippines. Và thực tế, nhu cầu nhập khẩu gạo từ Indonesia và Philippines được xem là yếu tố tích cực cho ngành hàng này của Việt Nam ngay từ đầu năm 2018.
Ngoài ra, do tác động của biến đổi khí hậu, nguồn cung gạo tại một số nước giảm, qua đó làm tăng nhu cầu nhập khẩu gạo từ các thị trường tiêu thụ chính như: Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc… Đặc biệt, năm vừa qua, việc mở rộng xuất khẩu gạo tới các thị trường mới như: Bangladesh, Irắc… cũng góp phần đưa xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng mạnh vượt kỳ vọng.
Theo Bộ Công Thương, cơ cấu gạo xuất khẩu tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực. xuất khẩu giảm mạnh ở phân khúc gạo cấp trung bình và cấp thấp; tăng mạnh ở dòng gạo cao cấp, các loại gạo chất lượng cao, giá trị cao (gạo nếp, japonica, gạo lứt), phù hợp với định hướng phát triển thị trường xuất khẩu.
Đơn cử như năm 2017, lượng gạo thơm xuất khẩu tăng mạnh do Irắc đẩy mạnh nhập khẩu với 30.000 tấn gạo thơm và Ả Rập Xêút nhập khẩu 18.780 tấn gạo thơm của Việt Nam. Tương tự, gạo lứt xuất khẩu tăng là do Hàn Quốc đẩy mạnh nhập khẩu với 12.000 tấn trong tháng 10/2017.
Chia sẻ với các doanh nghiệp nông nghiệp ở vựa lúa Đồng bằng sông Cửu Long gần đây, GS.TS. Võ Tòng Xuân nhấn mạnh thị trường gạo thế giới ngày càng cạnh tranh. Một công ty, một tỉnh, một quốc gia cần tìm cách làm cho gạo của mình nổi bật lên để cạnh tranh nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh.
Trong vấn đề chất lượng gạo xuất khẩu, theo băn khoăn của GS. Xuân, mặt hàng lúa gạo, trên cùng một cánh đồng có nhiều giống lúa, thương lái mua về rồi trộn chung lại để sơ chế, sau đó bán cho doanh nghiệp chế biến để xuất khẩu gạo không thể truy nguyên nguồn gốc. Vì vậy, đến nay, Việt Nam vẫn chưa có được loại gạo nào có thương hiệu mạnh.
“Ví dụ: Một sà lan lúa của thương lái đi ngang qua, người nông dân nào thấy cũng bán hết thì mười mấy giống lúa cũng trộn vô đó, thành ra không thể nào biết được chất lượng lúa gạo ra sao”, ông Xuân nói.
Cũng theo ông Xuân, tới đây dứt khoát phải có hợp đồng giữa nông dân trồng lúa với doanh nghiệp để sản xuất bền vững. Muốn như thế, nông dân phải tham gia vào các hợp tác xã nông nghiệp và có được hợp đồng từ phía doanh nghiệp. Bởi lẽ, nếu doanh nghiệp chỉ mua qua thương lái thì sẽ rất khó cho nông dân.
Hiện nay, dù giá gạo xuất khẩu của Việt Nam cao hơn gạo của Thái Lan cũng cần tiếp tục học hỏi kinh nghiệm từ quốc gia này. Do những áp lực cạnh tranh và cơ hội thị trường đã giúp họ thực hiện chuyển đổi nhiều mặt trong ngành hàng lúa gạo và tạo ra những mặt hàng khác biệt, hay những sản phẩm lúa gạo có giá trị gia tăng cao hơn.
Lẽ đương nhiên, cạnh tranh hiệu quả trên thị trường lúa gạo quốc tế còn tùy thuộc vào khả năng của nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu lúa gạo Việt Nam trong việc cung cấp sản phẩm gạo đáng tin cậy, chất lượng ổn định, bảo đảm an toàn thực phẩm, có chứng chỉ về việc áp dụng các quy trình canh tác bền vững.
Theo ông Phạm Thái Bình, Giám đốc công ty Nông nghiệp công nghệ cao Trung An (Cần Thơ), trong chuỗi liên kết sản xuất lúa gạo giữa doanh nghiệp và nông dân, vai trò và người thực hiện chính là doanh nghiệp. Cụ thể, doanh nghiệp đặt hàng để nông dân sản xuất. doanh nghiệp cung cấp vật tư đầu vụ cho nông dân, hướng dẫn nông dân quy trình canh tác sản xuất… và bao tiêu thu mua lúa tươi cho nông dân tại ruộng.
Ngoài ra, doanh nghiệp chịu trách nhiệm vận chuyển lúa tươi từ ruộng về nhà máy, chịu trách nhiệm lắp máy sấy để sấy lúa. doanh nghiệp phải đầu tư lắp silo chứa lúa bảo quản sau thu hoạch…, phải đầu tư máy xay xát chế biến, lau bóng, tách màu, đóng gói…
Chưa hết, doanh nghiệp còn chịu trách nhiệm tìm thị trường đầu ra cho sản phẩm gạo, và các vụ mùa tiếp theo của các năm sau cũng vậy.
Nói như thế để thấy vai trò, trách nhiệm của doanh nghiệp trong ngành hàng lúa gạo là cực kỳ lớn. Vốn đầu tư hạ tầng để phục vụ cánh đồng lớn của doanh nghiệp khá lớn, thu hồi chậm (máy sấy, xay xát chế biến, silo chứa lúa, giá lúa hỗ trợ nông dân…).
Thị trường tiêu thụ còn bấp bênh, chưa ổn định. Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ để doanh nghiệp đầu tư vào ngành hàng này còn quá khiêm tốn, dù đây là ngành có nhiều rủi ro và lâu hoàn vốn.