Ngành Dệt may tăng trưởng ngoạn mục
Theo quy hoạch phát triển ngành công nghiệp Dệt may Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trong đó đặt mục tiêu xây dựng ngành này trở thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, hướng về xuất khẩu, tạo nhiều việc làm cho xã hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Để đạt được mục tiêu này, ngành Dệt may đã và đang có những bước tăng trưởng ngoạn mục.
Thu hút FDI từ sân chơi hội nhập
Hiện nay, Việt Nam đang tham gia sân chơi tự do thuế quan với nhiều nước trên thế giới, trong đó có 8 hiệp định thương mại tự do với hầu hết các nước lớn như: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU… Đây đều là những thị trường xuất khẩu dệt may chủ lực của Việt Nam.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã thu hút nhiều dự án lớn góp phần đưa ngành này vươn lên đứng thứ hai về thu hút vốn và dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với hơn 1,12 tỉ USD chiếm hơn 20% tổng vốn.
Cụ thể là các dự án như: dự án sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho ngành dệt may đầu tư tại Bình Dương, có vốn đầu tư đăng ký 274 triệu USD của Công ty TNHH Polytex Far Eastern (Đài Loan) và cuối cùng là dự án nhà máy sợi, vải màu Lu Thai có tổng vốn đầu tư 160,8 triệu USD của nhà đầu tư Hong Kong tại tỉnh Tây Ninh…Ngoài ra phải kể đến 3 dự án lớn là dự án máy sản xuất và chế biến sợi của nhà đầu tư Thổ Nhĩ Kỳ xây dựng ở Đồng Nai với tổng vốn đầu tư lên đến 660 triệu USD, cao nhất từ trước tới nay.
Có thể nói, với hàng loạt lợi thế có được từ các hiệp định thương mại tự do mà nước ta đã gia nhập, Việt Nam đang trở thành mảnh đất đầy tiềm năng cho các DN dệt may ngoại đầu tư.Đặc biệt hơn nữa, Hiệp định TPP đã được thông qua, sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ, EU được giảm thuế còn 0% thì lợi thế cạnh tranh còn lớn hơn.
Theo phân tích từ Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu dệt may nước ta vào EU khi chưa có FTA chỉ đạt khoảng trên 300 triệu USD/năm. Nhưng khi FTA Việt Nam-EU có hiệu lực, kim ngạch sẽ tăng trưởng khoảng 50% trong năm đầu tiên và khoảng 20% trong năm tiếp theo.
Dệt may tăng trưởng ngoạn mục
Dệt may đang trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn có được nhiều chính sách ưu tiên từ Chính phủ và hứa hẹn sẽ đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đóng góp nhiều hơn cho ngân sách nhà nước và nền kinh tế nhờ tham gia các FTA và Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC).
Hiện nay, dệt may đang là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với kim ngạch lớn đạt 24 tỷ USD, năm 2015, ngành dệt may đặt mục tiêu xuất khẩu 28-28,5 tỷ USD, trong khi ngành da giày là 13,5 tỷ USD. Da giày, dệt may – 2 ngành xuất khẩu chủ lực đã góp vào kim ngạch xuất khẩu 23,1 tỷ USD trong 8 tháng 2015, tăng lần lượt 10,9% và 20,9% so với cùng kỳ năm 2014.
Cụ thể, 8 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 15 tỷ USD, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm 2014. Riêng trong tháng 8, đạt 2,4 tỷ USD, tăng 13,5%.
Với riêng da giày, xuất khẩu vẫn duy trì được “phong độ” khi có được mức tăng gần 21% so với cùng kỳ, đạt 8,1 tỷ USD. Tháng 8 cũng là tháng xuất khẩu giày dép tăng cao 21,1%, với kim ngạch 1,1 tỷ USD.
Giải pháp để ngành Dệt may đạt mục tiêu giai đoạn 2016 - 2020
Trong giai đoạn 2016 đến 2020, tốc độ tăng trưởng về giá trị sản xuất công nghiệp toàn Ngành đạt 12% đến 13%/năm, tăng trưởng xuất khẩu đạt 9%-10%/năm. Để đạt được mục tiêu này, đặc biệt để tận dụng tối đa lợi thế mà các FTA mang lại, ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước, ngoài việc không ngừng đầu tư, cải tiến công nghệ, mẫu mã, chất lượng sản phẩm, DN dệt may nói riêng và ngành Dệt may nói chung cần chú trọng việc phát triển và quản trị nguồn nhân lực, trong đó tập trung một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường liên kết giữa các DN và trường dạy nghề trong công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Theo đó, tiếp tục củng cố hệ thống đào tạo chuyên ngành Dệt may, thành lập trường đại học chuyên ngành về công nghệ dệt may và thời trang. Sự phối hợp này sẽ giúp nâng cao được trình độ chuyên môn, tay nghề của lực lượng lao động, đáp ứng được yêu cầu của DN. Bên cạnh đó, nó còn giảm được chi phí đào tạo căn bản cho DN và tạo đầu ra cho các trường dạy nghề. Đặc biệt, Hiệp hội Dệt may Việt Nam cần tiếp tục phát huy vai trò đầu mối để phối hợp và liên kết với các DN, cơ sở đào tạo trong và ngoài nước triển khai Chương trình đạo tạo nguồn nhân lực cho Ngành.
Hai là, tiếp tục cải tiến chương trình đào tạo. Xây dựng kế hoạch đào tạo lao động ngành Dệt may theo hướng hình thành cụm để phục vụ chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn Ngành. Chương trình đào tạo cần sát với thực tiễn. Nội dung bao gồm, đào tạo về kỹ thuật, công nghệ và các kỹ năng mềm trong lĩnh vực quản trị, phát triển sản phẩm, thiết kế và nghiên cứu thị trường, đào tạo nghề. Mặt khác, trong quá trình đào tạo, người học cần được đào tạo căn bản về chuyên môn, kỹ năng sống, phong cách làm việc chuyên nghiệp. Cần chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề nhằm tạo ra đội ngũ doanh nhân giỏi, cán bộ, công nhân lành nghề, chuyên sâu. Ngoài ra, các trường cần quan tâm đến những chính sách ưu tiên về tài chính tại Thông tư số 32/2010/ TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế tài chính thực hiện chương trình “Đào tạo nguồn nhân lực dệt may Việt Nam”. Theo đó, Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách cho các trường chuyên nghiệp thuộc ngành Dệt may để tăng cường cơ sở vật chất, tổ chức thực hiện đào tạo nguồn nhân lực Dệt May theo quy định. Đây chính là những ưu đãi kịp thời, góp phần tạo thuận lợi cho việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ngành Dệt may.
Ba là, DN cần “cởi mở”” hơn trong việc sử dụng nguồn nhân lực. Các DN không chỉ dừng lại ở việc đưa ra yêu cầu mà phải cùng với các trường tham gia đào tạo, chấp nhận đầu tư, chủ động đào tạo nhân lực cho chính mình, tránh phụ thuộc vào nhân lực có sẵn do các trường đào tạo… Ngoài ra, một thực tế hiện nay cho thấy đa phần đội ngũ nhân viên nhân sự trong các DN dệt may đều từ các ngành nghề khác chuyển sang tuy có kinh nghiệm trong quản lý nhưng lại thiếu kiến thức chuyên ngành, từ đó làm giảm hiệu quả của quản trị nguồn nhân lực trong DN. Do vậy, việc lên kế hoạch đào tạo lại cho đội ngũ quan trọng này cũng cần được quan tâm nhiều hơn.
Bốn là, xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong DN. Theo đó, để phát triển và quản trị nguồn nhân lực hiệu qủa, các DN cần xây dựng được quan hệ lao động tốt đẹp, đảm bảo quyền và lợi ích với đội ngũ nhân lực, qua đó hạn chế tình trạng nhảy việc, bỏ việc và kích thích sự sáng tạo và cống hiến của đội ngũ lao động. Động thái này cũng giúp giảm thiểu tranh chấp lao động, đình công – có thể làm ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển lâu dài của DN.