Ngành logistics: Dư địa lớn nhưng khai thác thế nào?
Với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước có thể chạm ngưỡng 400 tỷ USD trong năm nay và còn tăng trong những năm tới, Việt Nam được cho là đang nắm trong tay “cơ hội vàng” để phát triển ngành logistics. Tuy nhiên, việc khai thác dư địa này hoàn toàn không dễ dàng.
Nhiều tiềm năng
Tháng 2 năm nay, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 200/QĐ-TTg về Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025.
Theo đó, Quyết định 200 đặt mục tiêu đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 8 - 10%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt 15 - 20%, chi phí logistics giảm xuống còn 16 - 20% GDP, xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics trên thế giới đạt thứ 50 trở lên.
Các chuyên gia đánh giá đây là động thái tích cực nhất của Chính phủ về ngành logistics từ trước đến nay. Tại Diễn đàn logistics 2017 vừa diễn ra, Bộ Công thương cũng đã công bố Báo cáo logistics Việt Nam 2017 nhằm giúp các doanh nghiệp có cái nhìn tổng quát nhất về thực trạng và định hướng của ngành để xây dựng kế hoạch cụ thể hơn cho doanh nghiệp của mình trong những năm tới.
Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA) cho biết, cả nước có khoảng 3.000 doanh nghiệp hoạt động trong ngành logistics, trong số đó, 1.300 doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa, tham gia tích cực vào thị trường trong nước và nước ngoài.
Theo đánh giá của Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh, ngành logistics đã đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, mở rộng và phát triển thị trường quốc tế, nâng cao mức hưởng thụ của người tiêu dùng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước.
Việc sửa đổi và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại thương, thủ tục hải quan và kiểm tra chuyên ngành đã góp phần tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đang chạm ngưỡng 400 tỷ USD và còn tiếp tục tăng, vì vậy, Việt Nam đang nắm trong tay cơ hội “vàng” để phát triển và đưa logistics lên tầm cao mới.
Đánh giá về những lợi thế phát triển logistics tại Việt Nam, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam Ousmane Dione cho rằng, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại hơn bất kỳ nước nào trong khu vực, nhờ đó Việt Nam đang nổi lên là một trung tâm sản xuất công nghiệp toàn cầu và là điểm đến thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) rất lớn.
Bên cạnh đó, nằm ở trung tâm khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trên tuyến hàng hải quốc tế, Việt Nam có điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý rất thuận lợi để phát triển dịch vụ logistics. 3.000km đường bờ biển trải từ Bắc vào Nam với nhiều điều kiện thuận lợi để đưa hàng hóa xuất nhập khẩu đến với thế giới chính là yếu tố lý tưởng để tiến hành các hoạt động trung chuyển như quá cảnh, chuyển khẩu, tạm nhập, tái xuất.
Hơn nữa, khối lượng vận chuyển, luân chuyển hàng hóa tăng dẫn đến doanh thu các doanh nghiệp logistics được cải thiện và thị trường logistics Việt Nam đang trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Thách thức lớn
Tuy nhiên, đại diện của WB cũng chỉ ra rằng, số lượng không phải lúc nào cũng song hành cùng chất lượng. Mặc dù tăng trưởng xuất khẩu tăng mạnh nhưng Việt Nam vẫn chỉ thực hiện được những công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu. Kim ngạch xuất khẩu chủ yếu thuộc về khối doanh nghiệp FDI cho thấy mối liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với chuỗi giá trị toàn cầu vẫn rất yếu.
Chi phí xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn cao hơn mức bình quân của khối ASEAN, tính theo tỷ trọng GDP chi phí logistics chiếm 18 - 20%, cao gần gấp đôi so với các nền kinh tế phát triển và cao hơn mức bình quân toàn cầu 14%. Chi phí quá cao đã làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của hàng hóa Việt Nam nói riêng trên thị trường quốc tế.
Chủ tịch VLA Lê Duy Hiệp chỉ ra một khó khăn nữa là chỉ có khoảng 7% doanh nghiệp logistics có vốn trên 1.000 tỷ đồng, còn lại 41% có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong lĩnh vực vận tải quốc tế, mặc dù đã có những phát triển tương đối tốt về kho bãi, kiểm hàng tuy nhiên lại yếu về hoạt động quốc tế. Rất ít công ty mạnh dạn đầu tư mở văn phòng tại nước ngoài, năng suất lao động và chất lượng nguồn nhân lực còn thấp.
Các chuyên gia nhận định, để ngành dịch vụ quan trọng này có thể vươn lên và cạnh tranh ngang bằng với các doanh nghiệp nước ngoài đòi hỏi nỗ lực rất lớn từ chính doanh nghiệp cũng như sự hỗ trợ của các bộ, ngành, cơ quan quản lý. Do đó việc áp dụng tự động hóa, cơ chế một cửa, thực hiện quản lý dựa trên ứng dụng công nghệ để tăng cường tính minh bạch là cần thiết.
Để giảm chi phí thuế quan hiện đang cao hơn so với mức trung bình của ASEAN. Chuyên gia kinh tế cao cấp của WB Phạm Minh Đức cho rằng, cần thực hiện chương trình 4 trụ cột bao gồm: Đơn giản hóa các quy định hải quan và quản lý chuyên ngành, nâng cao hiệu quả cơ sở hạ tầng thương mại và chất lượng kết nối, xây dựng chiến lược ngành có tính cạnh tranh và phải tăng cường phối hợp liên ngành và hợp tác với khu vực tư nhân.
Các chuyên gia cũng nhấn mạnh, Chính phủ cần quan niệm logistics là bài toán vĩ mô, không phải nhiệm vụ riêng của từng địa phương. Thực tế cho thấy, vì thiếu bàn tay điều hành trực tiếp ở cấp vĩ mô của Chính phủ nên các hoạt động logistics trở nên cục bộ không hiệu quả.
Cùng với đó, phấn đấu hình thành các doanh nghiệp dịch vụ logistics đầu tàu, có đủ sức cạnh tranh trên thị trường, hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp dịch vụ logistics theo phương châm hiện đại, chuyên nghiệp.
Trong Báo cáo logistics Việt Nam 2017 cũng đưa ra nhận định, cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 với những bứt phá trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, tích hợp trí tuệ nhân tạo với mạng lưới kết nối Internet vạn vật (IoT) và các công cụ hiện đại hóa đang bắt đầu thay đổi toàn bộ viễn cảnh ngành logistics toàn cầu.
Do đó, đầu tư vào công nghệ và con người là sẽ yếu tố quyết định sự phát triển của lĩnh vực logistics trong tương lai. Đây là những yếu tố mà các cơ quan quản lý nhà nước, hiệp hội và doanh nghiệp dịch vụ logistics cũng như doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh của Việt Nam cần phải tính đến trong kế hoạch phát triển logistics thời gian tới.