Nội dung cơ bản về quyết toán ngân sách nhà nước
Theo Quyết định số 26/2015/QĐ-TTg ngày 08/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Kho bạc nhà nước (KBNN) trực thuộc Bộ Tài chính (Quyết định 26), từ ngày 01/10/2015 KBNN nhận nhiệm vụ tổng hợp, lập Báo cáo quyết toán ngân sách Nhà nước (NSNN) hàng năm trình Bộ Tài chính để báo cáo Chính phủ và trình Quốc hội phê chuẩn theo quy định của pháp luật. Để làm rõ hơn nhiệm vụ này của KBNN, bài viết tập trung trình bày một số nội dung cơ bản liên quan đến công tác tổng hợp, lập Báo cáo quyết toán NSNN hằng năm trình Quốc hội phê chuẩn theo quy định của Luật NSNN năm 2015, đồng thời phân tích kỹ hơn một số nội dung thẩm định quyết toán chi NSNN gắn với trách nhiệm của KBNN.
Trong các khâu của chu trình quản lý NSNN, quyết toán là khâu cuối cùng, qua đó đánh giá lại toàn bộ NSNN sau một năm thực hiện, từ khâu lập dự toán, khâu phân bổ cũng như chấp hành và điều hành NSNN. Số liệu và tình hình quyết toán NSNN là cơ sở để các cơ quan quản lý phân tích, đánh giá tình hình tài chính - ngân sách của quốc gia, từ đó có những quyết sách phù hợp nhằm quản lý tối ưu nguồn lực tài chính - ngân sách trong giai đoạn tiếp theo.
Đứng trên góc độ thực hiện công tác chuyên môn, có thể hiểu quyết toán NSNN là việc tổng hợp các khoản thu, chi của Nhà nước để lập báo cáo đánh giá tình hình thực thu, thực chi NSNN theo nội dung, chỉ tiêu dự toán ngân sách trong một năm và được cấp có thẩm quyền phê chuẩn.
Một số quy định về công tác quyết toán NSNN
Phạm vi quyết toán NSNN
Phạm vi các khoản thu, chi NSNN được tổng hợp quyết toán NNSN hàng năm được quy định tại Điều 5 Luật NSNN 2015, cụ thể như sau:
Các khoản thu NSNN bao gồm: Toàn bộ các khoản thu từ thuế, lệ phí; các khoản thu từ các hoạt động dịch vụ do cơ quan nhà nước thực hiện (đối với trường hợp được khoán chi phí hoạt động thì khoản chi phí hoạt động sẽ được khấu trừ trước khi tính khoản thu để nộp NSNN); các khoản phí thu từ các hoạt động dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước thực hiện nộp NSNN... và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Các khoản thu được tổng hợp quyết toán thu NSNN phải là số thu đã thực nộp, đã được hạch toán thu NSNN theo quy định, đảm bảo tính chính xác, trung thực và đầy đủ. Các khoản thu thuộc ngân sách các năm trước nộp ngân sách năm sau được hạch toán vào thu ngân sách năm sau.
Đối với những khoản thu NSNN không đúng quy định của pháp luật phải được hoàn trả cho đối tượng đã nộp; những khoản thu NSNN nhưng chưa thu phải được truy thu đầy đủ cho ngân sách.
Các khoản chi NSNN bao gồm: Chi đầu tư phát triển; chi dự trữ quốc gia; chi thường xuyên... và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Các khoản chi được tổng hợp quyết toán chi NSNN phải là số chi đã thực thanh toán và đã hạch toán chi NSNN theo quy định. Số liệu
chi NSNN của đơn vị sử dụng ngân sách, của chủ đầu tư và của ngân sách các cấp trước khi được tổng hợp báo cáo quyết toán NSNN phải được đối chiếu, xác nhận với KBNN nơi đơn vị mở tài khoản giao dịch.
Các khoản chi không đúng với quy định của pháp luật, cần phải thu hồi đầy đủ cho NSNN.
Quy trình quyết toán NSNN
Theo quy định của Luật NSNN, quy trình quyết toán NSNN được khái quát gồm các bước cơ bản sau đây:
Bước 1: Đơn vị lập và gửi Báo cáo quyết toán NSNN
Kết thúc năm ngân sách, đơn vị sử dụng ngân sách phải thực hiện khoá sổ kế toán ngân sách, xử lý ngân sách cuối năm và đối chiếu với KBNN nơi đơn vị mở tài khoản giao dịch để xác nhận số liệu, từ đó lập Báo cáo quyết toán NSNN.
Báo cáo quyết toán NSNN của đơn vị sử dụng ngân sách được gửi đơn vị dự toán cấp trên xét duyệt, sau đó tổng hợp và gửi đơn vị dự toán cấp I. Sau khi xét duyệt quyết toán của các đơn vị trực thuộc, đơn vị dự toán cấp I tổng hợp, lập Báo cáo quyết toán NSNN gửi cơ quan tài chính cùng cấp để cơ quan tài chính thẩm định quyết toán NSNN theo quy định.
Về thời hạn đơn vị dự toán cấp I gửi Báo cáo quyết toán NSNN:
Đối với ngân sách trung ương: Đơn vị dự toán cấp I (các Bộ, cơ quan trung ương) gửi Báo cáo quyết toán NSNN cho Bộ Tài chính chậm nhất trước ngày 01/10 năm sau.
Đối với ngân sách địa phương: Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định cụ thể thời hạn đơn vị dự toán cấp I gửi Báo cáo quyết toán NSNN cho cơ quan tài chính cùng cấp, tuy nhiên cần đảm bảo thời hạn để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gửi Báo cáo quyết toán ngân sách địa phương cho Bộ Tài chính trước ngày 01/10 năm sau.
Bước 2: Cơ quan tài chính, KBNN thẩm định Báo cáo quyết toán NSNN
Đối với ngân sách địa phương:
Cơ quan tài chính: Thẩm định quyết toán của đơn vị dự toán cấp I cùng cấp và quyết toán NSNN của ngân sách cấp dưới. Sau đó, cơ quan tài chính tổng hợp quyết toán ngân sách cấp mình và ngân sách cấp dưới để gửi cơ quan tài chính cấp trên thẩm định.
Theo quy định tại Điều 67 Luật NSNN năm 2015, Bộ Tài chính không thực hiện thẩm định đối với quyết toán ngân sách năm của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tuy nhiên, trong quá trình tổng hợp quyết toán NSNN, trường hợp phát hiện có sai sót, Bộ Tài chính yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp điều chỉnh lại số liệu. Trường hợp phát hiện sai phạm, Bộ Tài chính xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
Kết thúc quá trình thẩm định quyết toán NSNN, cơ quan tài chính trình Ủy ban nhân dân để trình Hội đồng nhân dân ban hành Nghị quyết phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương. Tiếp theo, cơ quan tài chính gửi Bộ Tài chính Nghị quyết phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương để làm căn cứ tổng hợp quyết toán NSNN.
Đối với ngân sách trung ương:
Các đơn vị quản lý chuyên ngành của Bộ Tài chính (các Vụ, Cục, Tổng cục) chủ trì thẩm định đối với các khoản chi NSNN như: Chi thường xuyên, chi đầu tư, chi vay nợ, chi viện trợ, chi dự trữ quốc gia...
Các đơn vị quản lý chuyên ngành của Bộ Tài chính sẽ gửi xin ý kiến KBNN thẩm định quyết toán NSNN của các Bộ, cơ quan trung ương. Căn cứ số liệu trên hệ thống TABMIS và căn cứ tài liệu quyết toán NSNN của các Bộ, cơ quan trung ương, KBNN tham gia ý kiến gửi các Vụ, Cục, Tổng cục chuyên ngành. Các Vụ, Cục, Tổng cục chuyên ngành tổng hợp và trình Lãnh đạo Bộ Tài chính ban hành Thông báo thẩm định quyết toán NSNN của các Bộ, cơ quan trung ương, kèm nhận xét, kiến nghị hoặc yêu cầu điều chỉnh lại số liệu.
Bước 3: KBNN (trung ương) tổng hợp, lập Báo cáo quyết toán NSNN
Theo quy định tại Quyết định 26, nhiệm vụ tổng hợp, lập Báo cáo quyết toán NSNN hằng năm được giao cho KBNN thực hiện.
KBNN căn cứ số liệu thu, chi NSNN, căn cứ Thông báo thẩm định quyết toán NSNN của các Bộ, cơ quan trung ương (đối với ngân sách trung ương) và số liệu ngân sách địa phương do Vụ NSNN tổng hợp trên cơ sở Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương để tổng hợp, lập Báo cáo quyết toán NSNN trình Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ, trình Quốc hội theo quy định.
Bước 4: Kiểm toán Nhà nước kiểm toán Báo cáo quyết toán NSNN
Để đảm bảo tính đúng đắn, trung thực của số liệu quyết toán NSNN, Luật NSNN quy định:
Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán Báo cáo quyết toán NSNN trước khi trình Quốc hội xem xét, phê chuẩn.
Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán Báo cáo quyết toán ngân sách địa phương trước khi gửi Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét, phê chuẩn.
Chậm nhất ngày 01/10 hằng năm, các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương phải gửi Kiểm toán Nhà nước Báo cáo quyết toán NSNN để thực hiện kiểm toán.
Đối với Báo cáo quyết toán NSNN được tổng hợp từ Báo cáo quyết toán của các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương: Chậm nhất ngày 28/02 năm sau nữa của năm quyết toán, Bộ Tài chính (KBNN) gửi Kiểm toán Nhà nước để thực hiện kiểm toán Báo cáo quyết toán NSNN trước khi trình Quốc hội xem xét, phê chuẩn. Sau khi gửi Kiểm toán Nhà nước Báo cáo quyết toán NSNN, KBNN phối hợp với các Vụ, Cục, Tổng cục giải trình với Kiểm toán Nhà nước theo yêu cầu.
Bước 5: Quốc hội phê chuẩn Báo cáo quyết toán NSNN
Trước khi Chính phủ trình Quốc hội, Báo cáo quyết toán NSNN phải được Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội thẩm tra với chức năng là cơ quan chuyên môn giúp việc cho Quốc hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách.
Việc thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội được thực hiện căn cứ vào Báo cáo quyết toán NSNN của Chính phủ, các thông tin do cơ quan kiểm toán báo cáo và kết quả hoạt động giám sát của các Uỷ ban và các đại biểu Quốc hội. Quá trình thẩm tra có thể thực hiện qua nhiều bước (và có thể phải điều chỉnh lại báo cáo quyết toán theo yêu cầu); khi kết thúc, Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội sẽ có Báo cáo thẩm tra về Báo cáo quyết toán NSNN để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến và trình Quốc hội.
Căn cứ vào các tài liệu: Báo cáo quyết toán NSNN do Chính phủ trình; Báo cáo của cơ quan Kiểm toán Nhà nước và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính - Ngân sách, Quốc hội sẽ thảo luận, xem xét, phê chuẩn quyết toán NSNN. Quốc hội xem xét, phê chuẩn quyết toán NSNN chậm nhất là 18 tháng sau khi kết thúc năm ngân sách.
Sau khi Báo cáo quyết toán NSNN được Quốc hội phê chuẩn, Chính phủ có nghĩa vụ công khai quyết toán NSNN (kèm theo Báo cáo kết quả kiểm toán quyết toán NSNN) để xã hội và công chúng có thể tiếp cận với số liệu, tài liệu quyết toán NSNN.
Một số nội dung lưu ý khi thẩm định số liệu quyết toán chi ngân sách trung ương
Như đã nêu trên, KBNN có nhiệm vụ phối hợp với các đơn vị quản lý chuyên ngành của Bộ Tài chính thẩm định quyết toán chi NSNN của các Bộ, cơ quan trung ương. Một số nội dung cần lưu ý khi thẩm định số liệu quyết toán chi NSNN cần lưu ý như sau:
Số liệu quyết toán chi NSNN phải đảm bảo cân đối về nguồn và cân đối về tiền
Đây là nguyên tắc quan trọng và xuyên suốt, từ số liệu tổng hợp của ngân sách quốc gia, số liệu tổng hợp của ngân sách các cấp, số liệu tổng hợp của đơn vị dự toán cấp I hay đối với số liệu chi tiết của từng đơn vị sử dụng ngân sách.
Nguyên tắc cân đối về nguồn: Tổng nguồn kinh phí đơn vị đã nhận được bằng với tổng nguồn kinh phí đơn vị đã sử dụng và còn lại, cụ thể:
Nguồn kinh phí năm trước chuyển sang + Nguồn kinh phí từ dự toán được giao của năm ngân sách = Nguồn kinh phí đơn vị quyết toán vào năm ngân sách hiện hành + Nguồn kinh phí giảm trong năm + Nguồn kinh phí được chuyển sang năm sau.
Nguyên tắc cân đối về tiền: Tổng số tiền đơn vị đã nhận được bằng với tổng số tiền đơn vị đã sử dụng và còn lại, cụ thể:
Số dư tạm ứng năm trước chuyển sang + Kinh phí (số tiền) thực nhận trong năm = Kinh phí quyết toán + Kinh phí (số tiền) đã nộp NSNN + Kinh phí (số tiền) còn phải nộp NSNN + Số dư tạm ứng được chuyển sang năm sau.
Trong quá trình thẩm định, trường hợp số liệu tại Báo cáo quyết toán NSNN của đơn vị không đảm bảo 2 nguyên tắc cân đối nêu trên, khi đó có thể khẳng định số liệu tại Báo cáo quyết toán NSNN của đơn vị là không chính xác. KBNN phối hợp với đơn vị quản lý chuyên ngành yêu cầu đơn vị kiểm tra, đối chiếu số liệu và báo cáo rõ nguyên nhân chênh lệch số liệu.
Thẩm định một số chỉ tiêu quyết toán chi NSNN của đơn vị dự toán cấp I
Số chuyển nguồn NSNN từ năm trước chuyển sang:
Căn cứ tổng hợp quyết toán NSNN đối với số liệu chuyển nguồn từ năm trước chuyển sang là số liệu tại Thông báo thẩm định quyết toán năm trước đã được Bộ Tài chính phê duyệt.
Vì vậy, cần so sánh, đối chiếu số liệu giữa Thông báo thẩm định quyết toán NSNN năm trước đã được Bộ Tài chính phê duyệt với số liệu tại dự thảo Thông báo thẩm định quyết toán ngân sách năm hiện hành.
Dự toán NSNN được giao trong năm
Dự toán đầu năm: Căn cứ tổng hợp số liệu quyết toán NSNN là dự toán Quốc hội phê chuẩn. Vì vậy, cần đối chiếu số liệu giữa dự toán Quốc hội phê chuẩn với số liệu tại dự thảo Thông báo thẩm định quyết toán ngân sách năm hiện hành. Trong đó lưu ý trường hợp: Dự toán chi thường xuyên vốn ngoài nước thực hiện rút dự toán như cơ chế vốn trong nước thì phải tổng hợp vào dự toán chi thường xuyên vốn trong nước được giao.
Dự toán bổ sung trong năm: Căn cứ số liệu tổng hợp dự toán bổ sung trong năm của Vụ NSNN tổng hợp theo quy định.
Kinh phí NSNN thực nhận trong năm
Là tổng số kinh phí đơn vị đã rút dự toán trong năm và kinh phí đơn vị được cấp bằng lệnh chi tiền.
Kinh phí rút dự toán trong năm cần kiểm tra, đối chiếu số liệu do KBNN kết xuất từ hệ thống TABMIS với số liệu của KBNN nơi đơn vị mở tài khoản giao dịch cung cấp.
Hiện nay, số liệu KBNN kết xuất từ hệ thống TABMIS không tách riêng được số kinh phí đơn vị đã rút dự toán từ năm trước chuyển sang (số dư tạm ứng từ năm trước chuyển sang) so với số kinh phí đơn vị đã rút dự toán trong năm ngân sách. Do đó công tác đối chiếu của KBNN về số liệu quyết toán của đơn vị dự toán cấp I gặp nhiều khó khăn.
Số liệu xác nhận của KBNN nơi đơn vị giao dịch: Theo quy định, các đơn vị phải có bản xác nhận của KBNN nơi giao dịch về số đã rút dự toán trong năm. Căn cứ xác nhận của KBNN nơi giao dịch, đối chiếu với số liệu của KBNN trên hệ thống TABMIS để xác định kinh phí NSNN thực nhận trong năm.
Kinh phí NSNN chuyển sang năm sau:
Theo quy định của Luật NSNN năm 2015, các khoản dự toán chi, bao gồm cả các khoản bổ sung trong năm, đến hết năm ngân sách (kể cả thời gian chỉnh lý quyết toán ngân sách theo quy định) nếu chưa thực hiện được hoặc chưa chi hết phải hủy bỏ, trừ một số khoản chi được chuyển nguồn sang năm sau để thực hiện và hạch toán quyết toán vào ngân sách năm sau.
Các khoản chi được KBNN đương nhiên chuyển nguồn sang ngân sách năm sau được quy định cụ thể tại Khoản 3, Điều 64 Luật NSNN năm 2015. Quy định mới này nhằm hạn chế việc chuyển nguồn tùy tiện, đảm bảo quản lý NSNN chặt chẽ, hiệu quả hơn.
Nguyên tắc xử lý chênh lệch số liệu giữa KBNN và đơn vị sử dụng ngân sách
Khi thẩm định quyết toán NSNN của các Bộ, cơ quan trung ương, nếu có chênh lệch giữa số liệu báo cáo của đơn vị dự toán cấp I, số liệu xác nhận của KBNN nơi đơn vị giao dịch và số liệu trên hệ thống TABMIS thì cần xác định nguyên nhân chênh lệch để có hướng xử lý phù hợp.
Một số tình huống thường xảy ra chênh lệch số liệu và cách thức xử lý cụ thể như sau:
Chênh lệch giữa số liệu báo cáo của các Bộ, cơ quan trung ương và số liệu trên hệ thống TABMIS:
Số liệu báo cáo của Bộ, cơ quan trung ương không chính xác: Do các Bộ, cơ quan trung ương là đơn vị dự toán cấp I, được tổng hợp từ rất nhiều báo cáo của đơn vị sử dụng ngân sách. Số liệu báo cáo của các đơn vị sử dụng ngân sách không thống nhất nhau, không chính xác so với số liệu của hệ thống TABMIS, đơn vị dự toán cấp I khi tổng hợp không kiểm tra, đối chiếu và không phát hiện sai sót dẫn đến số liệu tổng hợp sai.
Hướng xử lý cho vấn đề nêu trên là: Căn cứ số liệu trên hệ thống TABMIS để các Bộ, cơ quan trung ương điều chỉnh số liệu.
Ví dụ: Bộ A tổng hợp dự toán được giao trong năm 2015 là 100 triệu đồng, thấp hơn số liệu trên hệ thống TABMIS là 110 triệu đồng. Số liệu không khớp do: Để thực hiện thu hồi 10 triệu đồng kinh phí do cơ quan Kiểm toán Nhà nước kiến nghị nộp NSNN từ năm 2014, cơ quan tài chính đã thực hiện thu hồi 10 triệu đồng bằng cách giảm trừ dự toán năm 2015 của đơn vị (tổng dự toán được giao trên quyết định vẫn là 110 triệu đồng).
Bộ A khi tổng hợp số dự toán được giao trong năm 2015 chỉ tổng hợp 100 triệu đồng, không tổng hợp khoản kinh phí giao dự toán nhưng bị thu hồi cho NSNN 10 triệu đồng, do đó thấp hơn so với số liệu trên hệ thống TABMIS.
Do vậy để xử lý cần điều chỉnh số liệu của Bộ A khớp đúng với số liệu trên hệ thống TABMIS.
Số liệu trên hệ thống TABMIS không chính xác: Do cán bộ khi nhập số liệu vào TABMIS bị nhầm năm ngân sách.
Ví dụ: Năm 2015 Bộ B được ứng trước dự toán để thực hiện một số nhiệm vụ quan trọng chưa được bố trí trong dự toán 2015. Đến cuối năm 2015, Bộ Tài chính có thông báo bổ sung dự toán năm 2016 để thu hồi kinh phí đã ứng trước cho Bộ B. Do thông báo của Bộ Tài chính ban hành năm 2015, cán bộ khi vào TABMIS đã nhập dự toán ngân sách năm 2015 (không chính xác). Dự toán giao cho Bộ B là năm 2016 để thu hồi kinh phí đã ứng trước trong năm 2015.
Hướng xử lý: Số liệu quyết toán 2015 căn cứ vào báo cáo của Bộ B, đồng thời phải điều chỉnh số liệu trên hệ thống TABMIS khớp đúng với số liệu báo cáo của Bộ B.
Số liệu chênh lệch giữa xác nhận của KBNN nơi đơn vị giao dịch và số liệu trên hệ thống TABMIS:
Kết thúc năm ngân sách, sau thời điểm chỉnh lý quyết toán NSNN 31/01/2016, các đơn vị sử dụng ngân sách thực hiện đối chiếu số liệu với KBNN nơi đơn vị giao dịch và gửi đơn vị dự toán cấp trên tổng hợp.
Báo cáo tổng hợp của đơn vị dự toán cấp I căn cứ xác nhận của KBNN giao dịch để tổng hợp quyết toán NSNN năm 2015.
Tuy nhiên, một số trường hợp, sau thời hạn xét chuyển nguồn 01/3/2016 cơ quan tài chính vẫn cho phép đơn vị dự toán cấp I được phép chuyển nguồn sang năm sau đối với một số nhiệm vụ đơn vị đang thực hiện dở dang. Việc xét chuyển nguồn như vậy đã quá thời hạn so với quy định.
Căn cứ thông báo của cơ quan tài chính, KBNN giao dịch đã hạch toán bổ sung kinh phí chuyển nguồn sang năm sau cho đơn vị, do đó số liệu trên hệ thống TABMIS thay đổi so với số liệu KBNN giao dịch xác nhận với đơn vị sử dụng ngân sách. Tuy nhiên, đơn vị sử dụng ngân sách không xác nhận lại số liệu và nộp lại cho đơn vị dự toán cấp trên tổng hợp.
Mặc dù, số liệu trên hệ thống TABMIS đã được cập nhật nhưng số liệu báo cáo của đơn vị dự toán cấp I vẫn tổng hợp trên số liệu cũ, dẫn đến chênh lệch so với số liệu trên hệ thống TABMIS.
Hướng xử lý: Điều chỉnh số liệu của đơn vị dự toán cấp I khớp đúng với số liệu trên hệ thống TABMIS.
Công tác lập, tổng hợp quyết toán NSNN là một nhiệm vụ mới của hệ thống KBNN. Việc thực hiện thành công công tác quyết toán NSNN 2014 là tiền đề để KBNN phối hợp với các đơn vị liên quan tiếp tục thực hiện tốt một trong các khâu quan trọng của chu trình ngân sách, nâng cao ý nghĩa của công tác quyết toán NSNN, từ đó hoàn thiện công tác quản lý NSNN, đảm bảo giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách, góp phần quản lý nguồn lực tài chính nhà nước chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả.