Phát huy vai trò động lực của đầu tư công trong tăng trưởng kinh tế

Trần Linh Hậu - Trường Đại học Công nghệ Đông Á

Những năm qua, Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện các cơ chế, chính sách đối với đầu tư công và có nhiều nỗ lực trong tái cơ cấu đầu tư công theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý, tăng cường phân cấp đầu tư và nâng cao hiệu quả thực hiện vốn đầu tư. Do đó, đầu tư công của Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực cả về lượng và chất, góp phần làm thay đổi và phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng đời sống của người dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động đầu tư công vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế. Bài viết đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp quan trọng nhằm phát huy vai trò động lực của đầu tư công trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam.

Công tác đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư còn vướng mắc về đơn giá, phương án đền bù.
Công tác đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư còn vướng mắc về đơn giá, phương án đền bù.

Những kết quả đạt được

Đầu tư công vừa là nguồn lực, vừa là động lực tạo ra các hoạt động sản xuất, kinh doanh, việc làm, tăng cường an sinh xã hội. Đồng thời, đầu tư công tạo ra tạo động lực mới, không gian phát triển mới, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh; tăng cường kết nối địa phương, kết nối vùng; duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế, thúc đẩy phục hồi nhanh và phát triển bền vững… Với vai trò đó, Chính phủ đã và đang chủ trương đẩy mạnh giải ngân đầu tư công như là một giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Những năm qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành đã quyết liệt chỉ đạo đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công đồng bộ, khẩn trương, sát sao, hiệu quả. Theo đó, năm 2022, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 12 nghị quyết (3 nghị quyết chuyên đề), 4 công điện, 7 văn bản; tổ chức 3 hội nghị trực tuyến với các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương; thành lập 6 tổ công tác do 4 Phó Thủ tướng và 2 Bộ trưởng làm Tổ trưởng để kiểm tra, đôn đốc công tác giải ngân, đề xuất các cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung về thể chế, cơ chế, chính sách, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, các địa phương về giải ngân vốn đầu tư công. Kết quả giải ngân vốn đầu tư công năm 2022 đạt gần 93,5% kế hoạch. Đây là năm có số tuyệt đối giải ngân cao nhất so với các năm trước đây, tăng khoảng 23,5% (khoảng 103 nghìn tỷ đồng) so với năm 2021. Trong năm 2022, đầu tư công đã hoàn thành và đưa vào sử dụng 310 km đường bộ cao tốc, thông xe kỹ thuật 255 km; khởi công 12 dự án thành phần cao tốc Bắc Nam phía đông giai đoạn 2021-2025 và nhiều công trình, dự án quan trọng khác.

Năm 2023, kế hoạch vốn đầu tư công được Quốc hội thông qua với tổng số vốn trên 700 nghìn tỷ đồng. Đây là tổng mức đầu tư rất lớn, tăng khoảng 23% so với kế hoạch năm 2022 và cũng là năm có nguồn lực lớn nhất trong vòng 10 năm trở lại đây.

Theo Bộ Tài chính, đến hết ngày 31/1/2024 (hết thời hạn để giải ngân vốn đầu tư năm 2023), ước cả nước giải ngân vốn đầu tư công được 662.588,2 tỷ đồng, đạt 82,47% kế hoạch và đạt 93,12% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (711.559,8 tỷ đồng). Mặc dù tỷ lệ này chưa đạt theo đúng mục tiêu của Chính phủ đặt ra là giải ngân đạt 95% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, nhưng so với cùng kỳ năm 2022, tỷ lệ giải ngân có cao hơn (cùng kỳ năm 2022 đạt 80,63% kế hoạch và đạt 92,97% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao). Cụ thể, tỷ lệ giải ngân theo kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ giao năm 2023 cao hơn 0,15% và cao hơn 123.311,7 tỷ đồng về số tuyệt đối so với năm 2022.

Vốn đầu tư công năm 2023 được bố trí trọng tâm, trọng điểm, tập trung hơn vào các ngành, lĩnh vực then chốt, cơ cấu đầu tư công dịch chuyển mạnh sang các ngành gắn với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế như: phát triển hạ tầng giao thông, khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế và trợ giúp xã hội, khắc phục thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong đó, một lượng vốn lớn được bố trí theo tiến độ cho các dự án quan trọng quốc gia, dự án hạ tầng trọng điểm có tính kết nối, tác động liên vùng, có ý nghĩa thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững. Tiến độ các công trình, dự án chiến lược, trọng điểm quốc gia được đẩy mạnh. Nhiều dự án trong Chương trình Phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đã cơ bản hoàn thiện thủ tục, đang được tập trung triển khai thực hiện. Nhiều dự án cao tốc đã được khởi công, khánh thành trong năm 2023. Đồng thời, nhiều dự án về phòng, chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu, tăng cường an sinh xã hội… đi vào hoạt động, phát huy hiệu quả đầu tư.

Với lượng vốn lớn đưa vào nền kinh tế, đầu tư công đã phát huy vai trò là động lực dẫn dắt, thúc đẩy tăng trưởng GDP trong năm 2023. Theo tính toán, khi giải ngân vốn đầu tư công tăng thêm 1% thì tăng trưởng GDP tăng thêm 0,058%; giải ngân một đồng vốn đầu tư công kéo theo 1,61 đồng vốn đầu tư của khối ngoài nhà nước, góp phần kích cầu kinh tế, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.

Để đạt được kết quả trên, Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương triển khai đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án. Trong năm 2023, Chính phủ, Thủ tướng đã ban hành 8 nghị quyết, 1 chỉ thị, 6 công điện, văn bản để đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; đề ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm; yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải tập trung, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện giải ngân vốn đầu tư công. Đồng thời, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc về giải ngân vốn đầu tư công ngay từ tháng 2/2023; các cuộc họp Thường trực Chính phủ, phiên họp Chính phủ thường kỳ đều có nội dung về đầu tư công.

Đặc biệt, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã sát sao, xác định rõ vấn đề vướng mắc, khó khăn trong từng ngành, từng lĩnh vực, trong từng khâu của dự án đầu tư công để tập trung giải quyết, tháo gỡ các nút thắt. Chẳng hạn, đối với các công trình dự án lớn về giao thông đường bộ, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua Nghị quyết số 106/2023/QH15 về thí điểm một số chính sách đặc thù về đầu tư xây dựng công trình đường bộ liên quan đến các quy định pháp luật khác nhau tạo cơ chế thông thoáng, phù hợp yêu cầu thực tiễn để đẩy nhanh thực hiện, giải ngân các công trình giao thông đường bộ lớn, liên vùng. Đồng thời, Chính phủ ban hành một số nghị định sửa đổi, bổ sung để sát với tình hình thực tế (sửa đổi, bổ sung nghị định hướng dẫn Luật Đất đai; sửa đổi, bổ sung các nghị định thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng; sửa đổi, bổ sung nghị định về quản lý và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài)…

Bên cạnh đó, Chính phủ đã duy trì hoạt động của 5 tổ công tác thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công; lập 26 đoàn công tác do thành viên Chính phủ làm trưởng đoàn làm việc với các địa phương để kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn. Các tổ công tác đã làm việc với các bộ, ngành, địa phương có tỷ lệ giải ngân thấp trên tinh thần tháo gỡ những "nút thắt", "điểm nghẽn", đề xuất các cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, các địa phương về giải ngân vốn đầu tư công.

Với chức năng và nhiệm vụ được giao, Bộ Tài chính đã chỉ đạo Kho bạc Nhà nước sẵn sàng nguồn vốn để thực hiện giải ngân và kịp thời thanh toán khối lượng hoàn thành; đẩy mạnh kiểm soát và thanh toán trên hệ thống dịch vụ công trực tuyến. Bộ trưởng Bộ Tài chính với vai trò là Tổ trưởng Tổ công tác số 5 của Chính phủ đã thường xuyên có những cuộc kiểm tra trực tiếp và trực tuyến các địa phương do tổ quản lý đôn đốc việc giải ngân cũng như để nắm bắt các khó khăn, vướng mắc và kịp thời đưa ra giải pháp tháo gỡ.

Các bộ, ngành và địa phương đã chủ động, tích cực tập trung triển khai phân giao kế hoạch vốn đầu tư công kịp thời, đáp ứng được yêu cầu dự án có thể thực hiện và giải ngân ngay từ các tháng đầu năm, đặc biệt là các dự án chuyển tiếp, các dự án dự kiến hoàn thành trong năm nay. Nhiều bộ, ngành và địa phương đã giao từng đầu việc cụ thể cho mỗi sở, ban, ngành, chủ đầu tư, ban quản lý dự án, từ đó đã thúc đẩy tiến độ thực hiện và giải ngân đầu tư công từ sớm, từ xa.

Ngoài ra, việc lập, phân bổ và giao kế hoạch vốn đầu tư phát triển được giám sát chặt chẽ, đảm bảo công khai, minh bạch hơn. Kỷ luật, kỷ cương trong quản lý đầu tư công đã được tăng cường, gắn trách nhiệm của người đứng đầu với kết quả thực hiện kế hoạch đầu tư công. Vốn đầu tư công được bố trí tập trung hơn, tiếp tục khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, lãng phí, tăng cường quyền tự chủ, chủ động, trách nhiệm của các cấp đã góp phần đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa dự án vào sử dụng phát huy hiệu quả, số lượng dự án khởi công mới giảm mạnh.

Một số khó khăn, vướng mắc

Mặc dù đạt được những kết quả tích cực, nhưng việc triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư công vẫn còn một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc:

Thứ nhất, tình trạng áp dụng thiếu thống nhất một số quy định của pháp luật hay việc phân cấp, phân quyền còn hạn chế, vướng mắc, chưa cụ thể được trách nhiệm của từng cấp. Một số quy định hiện chưa đầy đủ hoặc không còn phù hợp với thực tế nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung, thay thế kịp thời, như quy định về quy hoạch sử dụng đất, khoáng sản, giải phóng mặt bằng, định mức, đơn giá xây dựng, định mức đầu tư đối với dự án không có cấu phần xây dựng… gây khó khăn cho quá trình thực hiện dự án đầu tư công.

Thứ hai, tình trạng chưa thực hiện hết số vốn được giao trong năm ngân sách, bố trí vốn cho những dự án chưa đủ thủ tục hoặc kéo dài quá thời gian quy định. Phân bổ vốn không đúng cơ cấu ngành được giao theo quy định; phân bổ vốn ngân sách nhà nước đối ứng cho các dự án sử dụng vốn ODA tại một số đơn vị chưa đảm bảo đầy đủ căn cứ, gây khó khăn cho công tác kiểm soát.

Việc bố trí vốn đầu tư còn dàn trải làm ảnh hưởng đến khả năng cân đối vốn của nền kinh tế; không phân bổ hết kế hoạch vốn từ đầu năm; chưa ưu tiên bố trí vốn cho các công trình trọng điểm, cấp bách. Bố trí vốn sai nguồn, không đúng đối tượng; bố trí vốn không sát thực tế dẫn đến không sử dụng được hoặc phải điều chỉnh, bổ sung nhiều lần. Điều chuyển vốn không kịp thời, ảnh hưởng đến việc giải ngân.

Mặt khác, tình trạng đề xuất trả lại kế hoạch vốn vẫn còn, đặc biệt là vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu do các bộ, địa phương chưa thể hoàn thiện thủ tục đầu tư theo quy định. Việc trả lại kế hoạch vốn gây ra một số hệ lụy và tạo áp lực rất lớn cho việc cân đối, bố trí kế hoạch vốn năm sau. Bởi lẽ, số vốn kế hoạch đã được bố trí nếu không giải ngân hoặc trả lại sẽ phải bổ sung vào kế hoạch năm sau để dự án có nguồn triển khai. Việc này không chỉ tác động tới công tác lập kế hoạch mà còn ảnh hưởng tới khả năng hoàn thành dự án, hiệu quả đầu tư, gây lãng phí cơ hội và nguồn lực. Hơn nữa, đối với phần vốn nước ngoài, dù hoàn trả vốn nhưng cả Trung ương và địa phương vẫn phải trả chi phí cam kết vốn, lãi vay.

Thứ ba, chất lượng công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư tại một số Bộ, ngành, địa phương chưa đảm bảo; phải thay đổi quy mô, điều chỉnh tổng mức đầu tư nhiều lần, kéo dài thời gian thực hiện dự án, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án và khả năng cân đối vốn. Việc duyệt dự án đầu tư thiếu đồng bộ, chưa đảm bảo tính kết nối, làm giảm hiệu quả đầu tư. Công tác lập, thẩm định và phê duyệt báo cáo quyết toán vốn đầu tư chưa đảm bảo quy định…

Đáng lưu ý, tình trạng chậm tiến độ xảy ra tại hầu hết các gói thầu, dự án, kể cả các dự án đầu tư trọng điểm quốc gia. Hạn chế này xuất phát từ thể chế và khâu tổ chức thực hiện, từ chuẩn bị đầu tư, bố trí kế hoạch vốn đến giải phóng mặt bằng, tái định cư, thanh toán, quyết toán. Đặc biệt, có tình trạng dự án chưa chuẩn bị sẵn sàng để tiếp nhận vốn đầu tư nhưng vẫn đăng ký nhu cầu vốn dẫn đến việc phân bổ và giao kế hoạch vốn không phù hợp, phải điều chỉnh kế hoạch vốn.

Việc lập kế hoạch vốn chưa sát với thực tế và khả năng giao vốn, giải ngân vốn dẫn đến không phân bổ được hết số vốn kế hoạch, nhiều dự án được giao kế hoạch vốn lớn hơn khả năng giải ngân, tiên lượng khả năng hoàn thiện thủ tục đầu tư chưa chính xác, kịp thời. Giao kế hoạch vốn chậm, chưa phù hợp với yêu cầu tiến độ các dự án, dẫn tới các chủ đầu tư khó chủ động trong thực hiện dự án; đề xuất phương án phân bổ chưa bám sát nguyên tắc, thứ tự ưu tiên.

Thứ tư, thủ tục điều chỉnh dự án chưa được đơn giản hóa, mất nhiều thời gian; thủ tục phê duyệt thiết kế, dự toán công trình, lựa chọn nhà thầu kéo dài. Công tác đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư còn vướng mắc về đơn giá, phương án đền bù. Công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị dự án chưa đảm bảo chất lượng, chưa phù hợp với thực tế. Thậm chí, một số chủ đầu tư, ban quản lý dự án sợ trách nhiệm khi triển khai, ký duyệt các thủ tục thanh toán, quyết toán… làm chậm tiến độ dự án đầu tư công.

Giải pháp phát huy vai trò của đầu tư công

2024 là năm quan trọng tạo đà thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu của cả giai đoạn 2021-2025. Bên cạnh việc dự báo tăng trưởng kinh tế tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, tình hình chính trị - xã hội, kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định, môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, thì khó khăn, thách thức còn rất lớn, nhất là từ những yếu tố bất lợi bên ngoài và những khó khăn nội tại như sản xuất kinh doanh, đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn; sức chống chịu của doanh nghiệp bị bào mòn, hậu quả và tác động của đại dịch Covid-19 còn kéo dài; thiên tai, dịch bệnh, hạn hán, bão lũ, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp.

Với tình hình này, đầu tư công vẫn được xác định là động lực quan trọng hàng đầu thúc đẩy tăng trưởng, là vốn mồi dẫn dắt, thu hút tối đa các nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Để phát huy vai trò này, tác giả đưa ra một số hàm ý sau:

Thứ nhất, các cơ quan chức năng cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện khung khổ pháp lý, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật về quản lý đầu tư. Trong đó, từng bước sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy định liên quan theo hướng đẩy mạnh phân cấp, rút ngắn thời gian, thủ tục và phù hợp với thực tế hoạt động đầu tư xây dựng trong nước cũng như thông lệ quốc tế.

Thứ hai, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cần tăng cường đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành và phối hợp trong thực hiện đầu tư công. Trong đó, khẩn trương hoàn thành việc điều chỉnh vốn giữa các nhiệm vụ, dự án của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội với các nhiệm vụ, dự án thuộc Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 (nếu có nhu cầu) theo hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Rà soát, điều chuyển kế hoạch đầu tư vốn giữa các dự án chậm thực hiện sang dự án có tiến độ thực hiện và giải ngân tốt, có nhu cầu bổ sung vốn. Nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án; lựa chọn dự án đáp ứng điều kiện bố trí vốn.

Thứ ba, đẩy mạnh giải ngân vốn đi đôi với bảo đảm chất lượng công trình, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công. Thực hiện ngay và chủ động rà soát, đánh giá khả năng thực hiện và giải ngân của từng dự án để có phương án điều chỉnh kế hoạch vốn từ những dự án chậm giải ngân sang dự án giải ngân tốt còn thiếu vốn trong nội bộ của bộ ngành, địa phương theo quy định, để bảo đảm thực hiện và giải ngân hết số vốn đã được giao. Các bộ, ngành, địa phương cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, nêu gương, phát huy vai trò của người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện; thường xuyên rà soát, đôn đốc, kịp thời phát hiện và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc phát sinh của từng dự án, nhất là các dự án trọng điểm; làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án, kiểm tra, rà soát từng dự án, đặc biệt là các dự án khởi công mới, lựa chọn dự án đủ thủ tục đầu tư, đáp ứng điều kiện bố trí vốn theo quy định, nâng cao tính sẵn sàng và tính khả thi, khả năng triển khai thực hiện dự án. Triển khai quyết liệt, hiệu quả các giải pháp khắc phục hạn chế, bất cập, chấn chỉnh khâu chuẩn bị đầu tư, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Tập trung đẩy nhanh tiến độ một số công trình hạ tầng giao thông trọng điểm, quan trọng quốc gia. Thực hiện quyết liệt Nghị quyết của Quốc hội, tổ chức rà soát, lập và điều chỉnh, phê duyệt các quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành; rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách và giải pháp thiết thực, đẩy mạnh phát triển các dự án kết cấu hạ tầng theo phương thức đối tác công tư.

Thứ tư, tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát từ khâu phân bổ và giải ngân vốn đến sản phẩm đầu ra, đặc biệt là đối với giai đoạn chuẩn bị đầu tư nhằm đảm bảo chủ trương đầu tư, công tác bố trí vốn, thời gian thực hiện dự án phù hợp, tránh lãng phí nguồn lực xã hội.

Ngoài ra, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đề cao trách nhiệm, nêu gương người đứng đầu. Có chế tài xử lý nghiêm khắc theo quy định pháp luật các chủ đầu tư, ban quản lý dự án, tổ chức, cá nhân cố tình gậy khó khăn, cản trợ, làm chậm tiến độ giao vốn, thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công.

Tài liệu tham khảo:

  1. Quốc hội (2021), Nghị quyết số 29/2021/QH15 về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025;
  2. Chính phủ (2023), Hội nghị trực tuyến của Thường trực Chính phủ với các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương về kiểm điểm, đánh giá tình hình, đôn đốc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2023;
  3. Bộ Tài chính (2024), Báo cáo tình hình giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023;
  4. Nguyệt Minh (2024), Đầu tư công tiếp tục sứ mệnh là động lực tăng trưởng 2024, https://baodauthau.vn/dau-tu-cong-tiep-tuc-su-menh-la-dong-luc-tang-truong-2024-post148654.html;
  5. Trang Nguyễn (2023), Phát huy vai trò đầu tư công trong nền kinh tế, https://consosukien.vn/phat-huy-vai-tro-dau-tu-cong-trong-nen-kinh-te.htm.
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 4/2024