Phát triển mô hình chuỗi liên kết cho các doanh nghiệp thủy sản

Thu Giang

(Taichinh) - Trong 10 năm trở lại đây, ngành thủy sản Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, giá trị sản xuất và xuất khẩu thủy sản đã tăng liên tục với tốc độ cao, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu thủy sản bình quân giai đoạn 2009 - 2014 đạt 14,64%/năm.

Phát triển sản xuất kinh doanh theo chuỗi là xu thế tất yếu trong thời gian tới đối với ngành thủy sản Việt Nam. Nguồn: internet
Phát triển sản xuất kinh doanh theo chuỗi là xu thế tất yếu trong thời gian tới đối với ngành thủy sản Việt Nam. Nguồn: internet

Tuy nhiên, sự phát triển của ngành thủy sản vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Để chủ động về giá cả, giảm thiểu chi phí và tăng lợi nhuận, các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam cần xây dựng và quản trị chuỗi cung ứng hiệu quả.

Một số hạn chế, tồn tại

Ở nước ta, mô hình chuỗi liên kết sản xuất giữa người sản xuất và doanh nghiệp trong ngành thủy sản đã được thực hiện từ khá lâu, chủ yếu theo liên kết dọc, đã mang lại hiệu quả thiết thực như: Mô hình liên kết dọc của Liên hợp sản xuất cá sạch APPU Agifish, chuỗi liên kết cá tra của Tafishco An Giang, liên kết cá tra của Công ty Caseamex Cần Thơ và Hợp tác xã Hiệp Phát 3, chuỗi cung ứng tôm Minh Phú… Tuy nhiên, mô hình liên kết theo chuỗi hiện nay vẫn còn rất nhiều vấn đề tồn tại, chưa được tháo gỡ.

Hiện nay, tạo giống là công đoạn gặp nhiều khó khăn đối với các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản do chưa gây dựng được nguồn giống đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng trong khi đầu tư cho lĩnh vực này chưa thực sự bài bản và tương xứng với yêu cầu của thị trường.

Ví dụ như trường hợp cá tra giống, theo Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), tỷ lệ cá tra bột lên cá hương hiện nay chỉ khoảng 20 - 35%, chất lượng cá bố mẹ thấp, chưa được chọn lọc, tiêu chuẩn hóa nên có hiện tượng thoái hóa giống. Lượng tôm giống đã qua kiểm dịch chưa cao, chất lượng không đồng đều. Hoạt động kiểm dịch, thanh tra, quản lý kinh doanh tôm giống còn khá lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng các giống tôm tốt xấu bị trộn lẫn lộn vào nhau ở các trại sản xuất giống.

Khâu chế biến thủy sản mới chỉ dừng lại chủ yếu ở công đoạn sơ chế. Theo số liệu hải quan, xuất khẩu thủy sản dạng tươi, đông lạnh (sơ chế) của Việt Nam chiếm khoảng 75,5% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản các loại.

Chính vì vậy, mặc dù là nhà cung cấp lớn nhiều loại thủy sản cho thị trường thế giới, nhưng Việt Nam vẫn chưa tạo được vị thế vững chắc, chưa xây dựng được thương hiệu cho các sản phẩm và chưa có khả năng chi phối thị trường.

Khả năng tự chủ về nguyên liệu của khâu chế biến vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là đối với ngành tôm do quy trình nuôi trồng thủy sản phức tạp, tốn kém chi phí, rủi ro cao và mức thâm dụng đất sản xuất lớn, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tiềm lực về vốn lớn và năng lực quản lý hiện đại. Theo số liệu của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD), các doanh nghiệp chế biến thủy sản hàng đầu hiện nay chỉ có khả năng chủ động được tối đa 20% nguyên liệu.

Ngoài ra, kênh phân phối vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém, phân tán và qua nhiều cấp trung gian. Do hầu hết các doanh nghiệp chế biến chưa thiết lập quan hệ hợp tác dọc với ngư dân hoặc người nuôi nên phải phụ thuộc vào các đại lý trung gian thu mua nguyên liệu (hay còn gọi là nậu vựa).

Theo thống kê của Chi cục nuôi trồng thủy sản tỉnh Khánh Hòa, toàn tỉnh hiện có hơn 19.000 lồng bè nuôi tôm hùm, nhưng chỉ có 1 công ty xuất khẩu chính ngạch tiêu thụ một lượng nhỏ tôm của dân. Sản lượng còn lại đều do 10 nậu vựa lớn và hàng chục các nậu vựa vệ tinh khác thao túng.

Các chủ thể chính liên quan và tham gia vào chuỗi cung ứng ngành thủy sản hiện nay gồm người sản xuất (khai thác và nuôi trồng thủy sản), đại lý thu mua nguyên liệu, cơ sở chế biến thủy sản và các nhà phân phối, xuất khẩu thủy sản, không có sự cam kết, phối hợp chặt chẽ.

Các đại lý trung gian thu mua nguyên liệu vẫn đóng vai trò quan trọng đưa thủy sản từ người sản xuất tới thị trường, khiến các doanh nghiệp chế biến khó kiểm soát được nguồn gốc nguyên liệu ban đầu. Đồng thời chưa có sự phối hợp chặt chẽ và phân chia lợi ích trong chuỗi sản xuất giữa các chủ thể chính, đặc biệt là giữa người sản xuất và doanh nghiệp, dẫn đến việc tiêu thụ sản phẩm có thời điểm gặp nhiều khó khăn, thiếu bền vững.

Xuất phát từ sự mất cân đối trong cung cầu về thủy sản nguyên liệu đã tạo nên hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp chế biến trong việc thu mua nguyên liệu, từ đó đẩy giá nguyên liệu lên cao, gây bất lợi cho chính doanh nghiệp.

Hiện nay, liên kết trong ngành thủy sản vẫn còn thiếu nhiều cơ sở pháp lý. Tỷ lệ sử dụng các thỏa thuận “miệng” trong các liên kết còn phổ biến trong khi các hợp đồng bằng văn bản được xây dựng thiếu tính khách quan và có nhiều nội dung bất lợi cho người nông dân, phần lớn hợp đồng không được chứng thực bởi các cơ quan có thẩm quyền, do đó, việc phát sinh thường xuyên các vi phạm hợp đồng là điều khó tránh khỏi.

Cân bằng lợi ích để phát triển các doanh nghiệp theo liên kết chuỗi

Có thể nói phát triển sản xuất kinh doanh theo chuỗi là xu thế tất yếu trong thời gian tới đối với ngành thủy sản Việt Nam. Việc hình thành chuỗi liên kết ngoài mục tiêu giúp cân đối nguồn nguyên liệu giữa người nuôi trồng và nhà máy chế biến, đồng thời còn hỗ trợ công tác truy xuất nguồn gốc sản phẩm, nâng cao uy tín thương hiệu.

Nguyên tắc cốt yếu của liên kết chuỗi là lợi ích. Mô hình liên kết hiện nay thiếu tính bền vững do các đối tác cùng tham gia chuỗi liên kết không thực hiện đầy đủ các cam kết, chạy theo các lợi ích ngắn hạn trước mắt. Để giải quyết những tồn tại trong phát triển các doanh nghiệp thủy sản theo liên kết chuỗi, cần tập trung vào các giải pháp:

Một là, tăng cường năng lực của từng khâu mắt xích trong chuỗi liên kết. Theo đó, cần rà soát, hạn chế sự gia tăng công suất chế biến ồ ạt, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động nhằm cải thiện chất lượng giống, tăng cường áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới, đầu tư cho công tác nghiên cứu phát triển các phương thức sản xuất mới có tính hiệu quả và bền vững để tăng sản lượng nuôi trồng thủy sản trong nước.

Hai là, cần có một khung pháp lý cụ thể, chi tiết và gắn với chế tài đủ mạnh đảm bảo tính hợp lý của các hợp đồng liên kết và lợi ích của các bên tham gia. Theo đó, Nhà nước cần xây dựng môi trường chung hỗ trợ phát triển liên kết thông qua việc phát triển các cụm liên kết chế biến thủy sản. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác trọng tài xử lý, cưỡng chế các vi phạm hợp đồng một cách triệt để nhằm giảm thiểu thiệt hại cho chính bản thân những đối tác trong liên kết và cho toàn xã hội.

Ba là, cần khuyến khích các ngân hàng tham gia vào mối liên kết chiến lược giữa ngân hàng - doanh nghiệp - ngư dân. Mặc dù, Chính phủ có chủ trương giãn nợ cho người nuôi thủy sản theo Công văn số 1149/TTg về chính sách hỗ trợ chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản hoặcQuyết định số 540/QĐ-TTg về chính sách tín dụng với người nuôi tôm và cá tra, nhưng thực tế các doanh nghiệp sản xuất và chế biến thủy sản trong nước vẫn đang trong tình trạng thiếu vốn, người nuôi trồng thủy sản vẫn khó tiếp cận với vốn vay của các ngân hàng vì áp lực thủ tục. Do đó, các ngân hàng cần linh hoạt hơn nữa trong việc xem xét giãn nợ và cho vay mới để hỗ trợ ngư dân và doanh nghiệp thủy sản, đặc biệt, cần ưu tiên tăng hạn mức cho vay với các khách hàng là doanh nghiệp truyền thống như các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu có uy tín trong việc vay, trả nợ.

Bốn là, doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cần minh bạch trong việc cung cấp các thông tin thị trường và yêu cầu chất lượng sản phẩm của khách hàng cho người sản xuất nuôi trồng thủy sản để tổ chức sản xuất ra sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường và khách hàng, góp phần đảm bảo chuỗi liên kết thủy sản phát triển ổn định, bền vững. Bên cạnh đó, cần tăng cường vai trò hiệp hội ngành trong công tác hỗ trợ chế biến, cân đối nguồn nguyên liệu, bảo quản và điều tiết giá thị trường. Tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cùng loại trên thị trường.