Sở hữu chéo tự nó không có lỗi
(Tài chính) Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, quan trọng là hệ thống giám sát phải sắc sảo, nghiêm khắc để không ai có cơ hội nào dùng sở hữu chéo tạo ra rủi ro lớn cho hệ thống tài chính.
Lịch sử phát triển nền kinh tế của nước nào cũng có sở hữu chéo và nó là một xu thế tất yếu trong giai đoạn đầu mới phát triển của một nền kinh tế. Việt Nam cũng như vậy. Nhưng, tại sao sở hữu chéo trong hệ thống tài chính Việt Nam lại là điểm nóng, tiềm ẩn nhiều rủi ro? TS. Lê Xuân Nghĩa trả lời phỏng vấn phóng viên xung quanh vấn đề này.
Phóng viên: Nói sở hữu chéo là xu thế tất yếu, có thể hiểu nó gắn với quá trình phát triển của các tổ chức tín dụng, thưa ông?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Tôi cho rằng, ở Việt Nam có 3 giai đoạn hình thành nên sở hữu chéo mạnh mẽ nhất. Giai đoạn thứ nhất là thời điểm các ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần ra đời và Chính phủ có chính sách khuyến khích các NHTM quốc doanh, DNNN lớn tham gia để hỗ trợ quản lý và tạo ra mức độ an toàn vốn tối thiểu cho các NHTM cổ phần. Qua đó, cũng để tạo lòng tin đối với người gửi tiền vào các ngân hàng này.
Giai đoạn hai là khi các NHTM nông thôn đẩy mạnh “nâng cấp” lên ngân hàng đô thị. Việc dịch chuyển này đòi hỏi các ngân hàng phải tăng vốn, đồng nghĩa với việc tăng cường năng lực quản lý. Do đó, các NHTM cổ phần đã kêu gọi sự góp vốn của các ngân hàng lớn hơn. Thời kỳ này, nhiều DN mà phần lớn là doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và tập đoàn tư nhân cũng tham gia góp vốn vào những ngân hàng này.
Giai đoạn ba là khi hệ thống ngân hàng tiến hành tái cấu trúc. Thông thường, phải có một ông chủ mới tham gia tái cấu trúc NHTM. Ông chủ đó có thể là một NHTM lớn hơn hoặc tập đoàn có tiềm lực tài chính mạnh mẽ, từ đó tạo ra một mối liên kết: sở hữu chéo từ tập đoàn tài chính vào hệ thống ngân hàng, hoặc từ ngân hàng lớn vào ngân hàng bé.
Kinh nghiệm quốc tế cũng như ở Việt Nam thì sở hữu chéo là nhu cầu tất yếu của quá trình tái cấu trúc và phát triển hệ thống tài chính. Và sở hữu chéo tự nó không có lỗi gì.
Nhưng tại sao sở hữu chéo đã khiến nhiều ngân hàng ở Việt Nam phải lao đao trong thời gian qua, thưa ông?
Vì thực tế diễn ra ở Việt Nam thời gian qua là nếu một ngân hàng được góp vốn cổ phần của 3-4 ông chủ lớn thì xảy ra hiện trạng tranh giành quyền lực giữa các ông chủ đó. Ông nào cũng muốn nguồn lực của ngân hàng phục vụ cho tập đoàn mình, nhóm mình. Điều đó khiến cho ngân hàng bị chia rẽ nguồn lực và gặp nhiều khó khăn về quản trị, đặc biệt là quản trị rủi ro, quản trị tín dụng…
Còn nếu ngân hàng có một ông chủ khống chế, sở hữu phần lớn thì cũng xảy ra tình trạng sử dụng nguồn tín dụng từ ngân hàng cho các DN, tập đoàn của mình. Như vậy, chúng ta thấy ở Việt Nam, một ngân hàng dù có nhiều hay một ông chủ cũng không ổn. Điều đó chứng tỏ nguyên nhân khiến sở hữu chéo trở thành vấn đề tiêu cực nằm ở chỗ khác.
Ở đâu, thưa ông?
Lý do nằm ở chỗ hệ thống giám sát và tính công khai minh bạch. Chúng ta đưa ra luật lệ là một chuyện, nhưng giám sát thực thi luật lệ đó cho nghiêm minh là vấn đề khác. Nhất là với ngành đặc thù như ngân hàng, hệ thống giám sát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với các NHTM phải rất cẩn trọng và thường xuyên, qua đó mới hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của các loại hình sở hữu.
Trong 1-2 năm gần đây, tôi nhận thấy hệ thống thanh tra giám sát của NHNN đã tốt hơn, nghiêm minh hơn nên tình trạng lũng đoạn bị hạn chế. Nhất là trong chương trình tái cơ cấu hệ thống TCTD, NHNN đã đưa ra một lộ trình xử lý vấn đề này khá cụ thể, như áp dụng chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là quản trị ngân hàng; quản trị rủi ro minh bạch, chặt chẽ hơn; áp dụng chuẩn mực kế toán, kiểm toán theo thông lệ quốc tế đảm bảo các báo cáo tài chính phản ánh đúng thực trạng hoạt động của NHTM; tiến tới sẽ loại bỏ dần các ngân hàng có sở hữu quá lớn của một nhóm cổ đông, hoặc cổ đông lớn để biến nó thành ngân hàng của đại chúng.
Hy vọng, với yêu cầu khắt khe về công khai minh bạch, kỷ luật thị trường sẽ giúp hạn chế, loại bỏ rủi ro do chính cấu trúc sở hữu tạo ra. Và điều này là một quá trình phát triển đòi hỏi hệ thống tài chính của chúng ta phải có tiềm lực thực sự. Vì vậy, điểm đáng lưu ý và có thể là khiếm khuyết lớn của các NHTM, đặc biệt là NHTM cổ phần nhỏ hiện nay, là vấn đề vốn ảo.
Vậy làm thế nào để nhận diện được vốn ảo?
Tôi nghĩ là không quá khó để nhận diện. Thời gian trước, hoạt động này diễn ra dưới nhiều hình thức, song có một hiện tượng khá phổ biến là các công ty con của ông chủ phát hành trái phiếu rồi ngân hàng mẹ mua, sau đó chuyển cho ông chủ để góp vốn vào ngân hàng mẹ. Đây là vấn đề nhức nhối nhất. Chính điều đó tạo ra những tiêu cực khác, khuếch trương tiêu cực của sở hữu chéo chứ không phải bản thân sở hữu chéo là cái gì đó xấu xa.
Người ta lợi dụng sở hữu chéo để tìm kiếm lợi nhuận từ các nguồn vốn không phải là vốn tích lũy của ngân hàng. Tức là, các ông chủ đã bốc từ tài khoản này góp tài khoản khác mà tổng tài sản không có gì thay đổi…
Ông có dự báo gì về vấn đề này trong thời gian tới?
Hiện tượng này đã giảm đáng kể so với vài năm trước. Cách đây một vài năm, việc tìm kiếm vốn kiểu này dễ hơn vì hệ thống giám sát của cơ quan quản lý chưa quan tâm nhiều lắm đến chuyện đó. Giờ đây, nếu có công ty con nào trong diện này, tôi nghĩ NHNN sẽ kiểm tra ngay mục đích DN phát hành trái phiếu làm gì, chi tiêu vào đâu… Nên tôi nghĩ, vào thời điểm này không ai dám làm như vậy nữa. Bởi đây là hình thức huy động vốn quá lộ liễu và ảo thực sự.
Tôi được biết, từ năm ngoái đến nay, NHNN mạnh tay “thổi còi” những trường hợp như vậy. Và nếu như tiến độ minh bạch hóa cũng như việc thanh tra, giám sát hệ thống tài chính được đẩy mạnh hơn nữa thì hiện tượng này sẽ dần bị loại bỏ.
Vẫn phải chấp nhận sở hữu chéo trong một giai đoạn nhất định, vậy làm thế nào để ngăn chặn rủi ro từ sở hữu chéo?
Như tôi nói, việc đưa cấu trúc sở hữu về đúng quy định của Luật Các Tổ chức tín dụng là việc cần làm, nhưng phải có thời gian. Vì sở hữu chéo là vấn đề lịch sử để lại, không thể giải quyết ngày một ngày hai. Trước mắt, NHNN cần duy trì kiểm tra liên tục, chặt chẽ, đảm bảo các ông chủ rút dần vốn của mình về đúng mức quy định của pháp luật mà không gây khó khăn, đổ bể cho hệ thống ngân hàng.
Tôi nghĩ, có nhiều cách để thực hiện việc này. Cách làm tốt nhất, theo tôi, nên cho phép các ông chủ công khai sở hữu của họ và NHNN ra thời hạn để họ thoái vốn một cách tự nguyện, ví dụ như bán cổ phần cho cổ đông khác. Trong trường hợp họ không tự làm được thì NHNN sẽ tìm kiếm người mua để giúp họ thoái vốn, hoặc là có biện pháp cứng rắn hơn đối với những ông chủ này khi họ cố tình không thoái vốn. Nhưng tôi cho rằng, quan trọng là hệ thống giám sát phải sắc sảo, nghiêm khắc để không ai có cơ hội nào dùng sở hữu chéo tạo ra rủi ro lớn cho hệ thống tài chính.
Xin cảm ơn ông!