Quản lý tài chính ở các trường đại học công lập hướng tới tự chủ

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 12/2020

Trong những năm gần đây, quản lý tài chính của các trường đại học công lập đã có nhiều chuyển biến tích cực để phù hợp hơn với quá trình phát triển, cũng như tiến tới tự chủ đại học.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Điều này được thể hiện ngày càng rõ nét trong các văn bản luật và dưới luật về cơ chế tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và trường đại học công lập nói riêng. Trên thực tế, bên cạnh những kết quả đạt được còn không ít những tồn tại, những khó khăn, thách thức đối với công tác quản lý tài chính tại các trường đại học công lập trong quá trình tiến tới tự chủ.

Thực trạng quản lý tài chính đại học công lập ở Việt Nam hiện nay

Chất lượng quản lý tài chính đại học ở Việt Nam hiện nay đã thay đổi rõ rệt nhưng mức độ tự chủ tài chính ở các trường đại học công lập ở nước ta vẫn còn thấp. Các trường đại học công lập, về cơ bản được Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất ban đầu nhưng đa phần đã đến thời điểm xuống cấp, cần tu bổ, sửa chữa hoặc đầu tư mới.

Vì vậy, nguồn lực tài chính là rất cần thiết không chỉ cho việc hỗ trợ chi thường xuyên mà cần thiết cho cả đầu tư xây dựng. Phần lớn các trường không thể tự đảm bảo đủ nguồn lực để chi thường xuyên, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật làm việc, thu nhập tăng thêm cho cán bộ, viên chức, người lao động trong trường.

Bên cạnh đó, các trường đại học công lập chưa được tự chủ về thu, đặc biệt là thu học phí. Mức học phí đến thời điểm hiện tại, các trường vẫn phải tuân thủ theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP. Theo Nghị định này, đối với các trường tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư được xác định học phí trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành và lộ trình tính đủ chi phí đào tạo. Đối với các trường còn lại, học phí được xác định trên cơ sở tính toán có sự cân đối giữa hỗ trợ của Nhà nước và đóng góp của người học, thực hiện theo lộ trình giảm dần bao cấp của Nhà nước. Mức trần học phí được quy định cụ thể, chi tiết cho từng năm học, cho từng loại trường đại học công lập tại điều 5 Nghị định số 86/2015/NĐ-CP. Mức trần học phí nhìn chung đã tăng theo từng năm học, nhưng chưa đủ để bù đắp các chi phí đào tạo của các trường.

Thêm vào đó, việc chi trả lương cho cán bộ, viên chức, người lao động trong các trường đại học công lập hiện nay vẫn dựa theo hệ số ngạch, bậc, chức vụ phụ thuộc vào thang bảng lương quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP. Điều này ảnh hưởng lớn đến việc thu hút người tài do sự cạnh tranh về mức lương tại các đơn vị tư nhân đang trả rất cao, chế độ đãi ngộ rất tốt và ảnh hưởng đến năng suất cũng như tinh thần góp sức tăng cường nguồn thu cho các trường.

Quản lý tài chính ở trường đại học công lập và vấn đề đặt ra

Những kết quả

Việc thực hiện tự chủ của các trường đại học công lập trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, góp phần mở rộng quy mô đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo và cải thiện thu nhập cho người lao động. Cụ thể như:

- Bảo đảm công tác quản lý tài chính tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật hiện hành và được thực hiện thống nhất, công khai, minh bạch có sự giám sát của người lao động trong trường.

- Các trường đã chủ động xây dựng phương án, đề án, kế hoạch tăng cường, đa dạng nguồn thu. Chẳng hạn như: Đề án sử dụng tài sản dôi dư để cho thuê, liên doanh, liên kết, đề án mở mã ngành mới để đáp ứng nhu cầu của xã hội, đa dạng hóa các hình thức đào tạo...

- Các trường đã chủ động hơn trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính. Chủ động xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ phù hợp với các quy định của pháp luật và điều kiện thực tế của đơn vị mình là cơ sở để sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực tài chính. Quy chế chi tiêu nội bộ được xây dựng có sự tham gia của tất cả viên chức, người lao động trong đơn vị và được công khai, minh bạch.

- Đảm bảo và từng bước cải thiện thu nhập cho người lao động trong các trường đại học. Khi Nhà nước điều chỉnh tiền lương, các trường tự đảm bảo tiền lương tăng thêm từ các nguồn quy định. Mặt khác, các trường chủ động tiết kiệm trong chi tiêu, mở rộng nguồn thu để có thu nhập tăng thêm cho người lao động

Những tồn tại, hạn chế

Về cơ chế, chính sách

Hiện nay, vẫn còn tình trạng thiếu nhất quán, đồng bộ trong các quy định về tự chủ. Về quản lý tài chính, ngoài các quy định của Luật Giáo dục đại học, các trường đại học công lập phải tuân thủ các quy định của luật chuyên ngành như: Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Quản lý sử dụng tài sản công...

Các luật chuyên ngành này chưa có quy định đặc thù cho giáo dục đại học nên một số nội dung còn mâu thuẫn với Luật Giáo dục đại học. Chẳng hạn như: Theo Điều 66 Luật Giáo dục đại học đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập tự đảm bảo toàn bộ kinh phí chi thường xuyên thì Hội đồng trường, Hội đồng đại học được quyết định sử dụng nguồn thu hợp pháp ngoài ngân sách nhà nước cấp để đầu tư các dự án…

Tuy nhiên, theo Điều 17 và Điều 39 của Luật Đầu tư công, Điều 8 và Điều 9 Nghị định số 136/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015 không có quy định về thẩm quyền quyết định đầu tư của cơ sở giáo dục đại học công lập.

Bên cạnh đó, hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể cho các trường công lập thực hiện tự chủ được vay vốn ưu đãi hoặc được hỗ trợ lãi suất để tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học.

Các dịch vụ đặt hàng, giao nhiệm vụ của Nhà nước theo cơ chế cạnh tranh, đấu thầu theo Nghị định số 32/2019/NĐ-CP ngày 10/4/2019 chậm được triển khai. Xu hướng tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập ngày càng tăng lên cùng với đó là sự giảm dần sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước. Do đó, việc cấp phát kinh phí thường xuyên, kinh phí đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước cho trường có xu hướng giảm và chuyển sang cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ...

Việc thực hiện xã hội hoá giáo dục đã được quy định rõ trong Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018, nhưng cho đến nay, việc đầu tư của các tổ chức, cá nhân cho các trường đại học còn hạn chế; Chưa tận dụng được nguồn lực dồi dào ngoài xã hội cho giáo dục đại học. Nhà nước có chính sách ưu đãi, khuyến khích tổ chức, doanh nghiệp cá nhân đầu tư vào hoạt động giáo dục và đào tạo nhưng chưa cụ thể nên không thực sự thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư.

Về cơ cấu tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ, giáo viên

Hội đồng trường giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong cơ cấu tổ chức của trường đại học nhưng đến nay vẫn còn nhiều trường chưa thành lập hoặc hoạt động còn mang tính hình thức. Nguyên nhân một phần là do cơ chế hoạt động, vai trò, quan hệ giữa hội đồng trường với Đảng ủy, Ban giám hiệu chưa rõ ràng. Một phần là do nhận thức của Ban giám hiệu, viên chức, người lao động trong nhà trường chưa thực sự đánh giá cao vai trò của Hội đồng trường. Bên cạnh đó, cơ quan chủ quản chưa thực sự quyết liệt trong việc thành lập hội đồng trường.

Cơ cấu tổ chức, bộ máy của các trường chưa thực sự hợp lý. Nhiều đơn vị trong trường đại học còn chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, hoạt động kém hiệu quả. Số lượng lao động trực tiếp và gián tiếp chưa hợp lý. Nhiều trường chưa thực hiện nghiêm túc việc sắp xếp cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong từng đơn vị theo hướng tinh gọn, giảm đầu mối, bỏ cấp trung gian.

Nhận thức của một bộ phận cán bộ, viên chức, người lao động còn hạn chế, chậm đổi mới. Lãnh đạo nhà trường chưa thực sự quyết liệt thay đổi. Tình trạng “không phải tiền của mình thì mặc kệ” vẫn còn tồn tại trong tư tưởng của một bộ phận người lao động. Bên cạnh đó là ý thức ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nước, yên tâm với việc “biên chế” dẫn đến chưa tích cực trong việc thay đổi và thu hút, phát triển các nguồn thu cho nhà trường...

Về rà soát xây dựng, sửa đổi và thực hiện Quy chế chi tiêu nội bộ

Chất lượng Quy chế chi tiêu nội bộ của các trường đại học công lập nhìn chung đã được cải thiện rõ rệt nhưng chưa cao, chưa chi tiết và bao quát đầy đủ các nội dung thu, chi phát sinh thực tế của các trường. Một số các quy định của pháp luật đưa vào quy chế chưa đúng hoặc chưa được cập nhật, điều chỉnh kịp thời.

Việc trích lập và sử dụng các quỹ chưa hợp lý, cụ thể như: Khi Nhà nước điều chỉnh tiền lương, đơn vị tự bảo đảm tiền lương tăng thêm từ nguồn thu của đơn vị, ngân sách nhà nước không cấp bổ sung. Như vậy, một phần kinh phí không nhỏ để trích quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp được sử dụng để bảo đảm cho tiền lương của nhân viên. Đối với những trường có chênh lệch nguồn thu thấp, việc trích tỷ lệ theo thứ tự mà không giành cho việc trích lập Quỹ Phát triển hoạt động sự nghiệp là chưa hợp lý.

Việc thực hiện chi trả lương theo hệ số cấp bậc, chức vụ và thu nhập tăng thêm cho người lao động còn thấp, chưa thực sự chi trả theo năng lực, hiệu quả công việc. Những hạn chế này chưa khuyến khích được sự sáng tạo và nhân tố tích cực trong đơn vị chẳng hạn như: những người trẻ tuổi thường có hệ số lương thấp, nếu hiệu quả công việc tốt khi tính thu nhập tăng thêm theo hệ số thì số được nhận cũng không cao. Đối với cán bộ lãnh đạo trong nhà trường thì thực hiện hệ số thu nhập tăng thêm tối đa không quá 2 lần hệ số thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện của người lao động trong đơn vị. Điều này chưa thực sự tạo ra động lực cho họ khi chính những cán bộ lãnh đạo này là người quyết định và chỉ đạo các hoạt động trong đào tạo cũng như tìm kiếm nguồn thu cho nhà trường.

Trong khuôn khổ nguồn kinh phí ngân sách còn hạn chế, nhiều nhiệm vụ chi phải chi do đó ngân sách nhà nước cấp thành nhiều đợt, nhiều năm ví dụ như các công trình đầu tư xây dựng cơ bản… Đơn vị không đánh giá, sắp xếp các nhiệm vụ chi theo thứ tự ưu tiên, dẫn đến tình trạng kinh phí sử dụng dàn trải, không hiệu quả. Khi ngân sách gặp khó khăn, không cấp đủ là một trong những nguyên nhân dẫn tới việc kéo dài thời gian thực hiện, lãng phí, nợ đọng.

Nguyên nhân của hạn chế, tồn tại trong thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại trường đại học công lập

Số lượng các trường đại học nhiều trong đó nhiều trường năng lực yếu, chất lượng đào tạo không cao. Các trường này chỉ tập trung vào số lượng để tìm kiếm lợi nhuận mà không coi trọng vấn đề chất lượng. Điển hình có thể kể đến như Trường Đại học Đông Đô. Điều này làm giảm số lượng sinh viên đăng ký học tại các trường công lập từ đó giảm nguồn thu đào tạo của các trường.

Mức học phí còn thấp chưa tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo cho các loại hình đào tạo và các nhóm ngành đào tạo. Bên cạnh đó, nguồn kinh phí ngân sách nhà nước cấp còn hạn chế. Điều đó dẫn đến nguồn tài chính không đủ để đầu tư, nâng cao chất lượng đào tạo một cách tương ứng với nhu cầu đào tạo.

Các đơn vị sự nghiệp được tự chủ nhưng chưa thực sự chủ động, linh hoạt trong việc thay đổi để thích ứng với sự thay đổi của xã hội. Chưa chủ động xây dựng kế hoạch chiến lược trong dài hạn, ngắn hạn trong đó có dự đoán các khó khăn và các biện pháp giải quyết tương ứng. Có thể thấy, tình hình dịch bệnh Covid - 19 đã tác động rất nhiều đến các trường đại học khi các sinh viên phải nghỉ học ở nhà và học online. Từ đó, một số trường mới xây dựng phương án dạy học trực tuyến, một số trường thì chậm hơn dẫn đến ảnh hưởng đến việc học tập, cũng như nguồn thu từ học phí của các em sinh viên.

Hiện nay, trước xu thế hội nhập mạnh mẽ giáo dục quốc tế, sự xuất hiện của nhiều tổ chức giáo dục nước ngoài cũng như việc liên kết đào tạo với nước ngoài làm gia tăng sự cạnh tranh của giáo dục đại học. Nguồn lực nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ, tạo động lực cho các trường đại học phát triển. Tuy nhiên, ngân sách chi cho giáo dục đào tạo chưa được phân bổ hợp lý.

Bên cạnh đó, còn một số nguyên nhân khác như: Một số trường đặc thù khó mở rộng, đa dạng nguồn thu như các trường đào tạo sư phạm thể dục thể thao, các trường ở vùng sâu, vùng ngoại thành kinh tế khó khăn. Cơ cấu đội ngũ, số lượng người làm, trình độ năng lực, phẩm chất của cán bộ làm công việc tài chính trong nhà trường chưa phù hợp chẳng hạn như: Cán bộ làm công tác quản lý tài chính có quá nhiều người sắp đến tuổi nghỉ hưu hay cơ cấu nhiều cán bộ nữ trẻ sắp đến thời kỳ nghỉ thai sản hoặc số người được đào tạo bài bản đúng chuyên môn ít, đó là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng chậm, quá tải không đáp ứng được chất lượng công việc. Ứng dụng công nghệ thông tin, phần mềm, kết quả nghiên cứu khoa học vào công việc còn nhiều hạn chế như: không sử dụng được hoặc sử dụng không thành thạo phần mềm về quản lý tài chính, phần mềm kế toán, phần mềm dự toán…

Giải pháp đổi mới công tác quản lý tài chính tại các trường đại học công lập

Thời gian tới, nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý tài chính tại các trường đại học công lập cần chú trọng một số giải pháp sau:

Một là, hoàn thiện, điều chỉnh và cập nhật những quy định mới cũng như các khoản chi trong quy chế chi tiêu nội bộ của trường. Đảm bảo bao quát được hết các khoản chi phát sinh mang tính thường xuyên và trong phạm vi mức khung định mức do Nhà nước ban hành, phù hợp với điều kiện tài chính của nhà trường.

Hai là, các trường đại học công lập cần xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển cho đơn vị mình trong dài hạn và ngắn hạn. Việc xây dựng kế hoạch chiến lược cần có sự tham gia của tất cả viên chức, người lao động trong đơn vị. Khuyến khích những đóng góp có tính sáng tạo, những giải pháp thiết thực và có tính thực tiễn cao.

Ba là, thu nhập tăng thêm cần được xây dựng trên cơ sở hiệu quả công việc và đóng góp của các cá nhân. Công thức tính thu nhập tăng thêm cần được nghiên cứu có căn cứ khoa học, đảm bảo phù hợp với đóng góp của mỗi cá nhân trên tinh thần tạo động lực cho người lao động trong việc tăng cường, phát triển nguồn thu cho nhà trường.

Bốn là, hoàn thiện cơ chế quản lý đối với các phương thức cung ứng dịch vụ sự nghiệp công hiện có và nâng cao chất lượng, đa dạng các loại hình dịch vụ ở đây là các loại hình đào tạo chất lượng cao, loại hình đào tạo ngắn hạn, mở thêm ngành đào tạo.

Năm là, tăng cường phân quyền, phân cấp và trách nhiệm giải trình cho các đơn vị thuộc và trực thuộc trên cơ sở có tính đến đặc điểm, điều kiện và năng lực của từng đơn vị. Từ đó, quán triệt sâu sắc đến từng đơn vị, từng bộ phận phòng ban và từng nhân viên thực hiện tốt tiết kiệm, chống lãng phí bằng các giải pháp cụ thể, thiết thực.

Sáu là, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện cho các cán bộ, viên chức, người lao động được học tập, nâng cao trình độ về tài chính, quản lý tài chính. Có cơ chế khen thưởng, khuyến khích, tạo động lực cho những cán bộ, viên chức, người lao động có thành tích xuất sắc trong công tác quản lý tài chính.

Bảy là, huy động nguồn tài trợ khác từ bên ngoài theo hình thức quỹ từ thiện, ủng hộ hoặc học bổng cho các sinh viên xuất sắc. Tích cực phối hợp với các tổ chức, cá nhân bên ngoài trường theo hướng đào tạo theo hợp đồng, hợp tác liên kết liên doanh. Liên kết, mở rộng hợp tác với các doanh nghiệp, đơn vị tuyển dụng để tạo thêm cơ hội việc làm cho các sinh viên sau khi ra trường nhằm thu hút sinh viên theo học.

Tám là, hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy theo hướng tinh giản, giảm đầu mối thực hiện. Điều chỉnh cơ cấu nhân lực giữa giảng viên và chuyên viên theo hướng gia tăng lực lượng lao động trực tiếp (giảng viên); giảm đội ngũ lao động gián tiếp (chuyên viên và nhân viên), trong đó chú trọng sử dụng công nghệ thông tin hoặc thuê ngoài nhằm tăng hiệu quả hoạt động của bộ máy. Sắp xếp, bố trí cơ cấu cán bộ làm công tác quản lý tài chính trên cơ sở bố trí đủ số lượng nhân viên trong trường hợp nghỉ thai sản, nghỉ hưu.             

Tài liệu tham khảo:

Quốc hội (2012), Luật Giáo dục đại học năm 2012;

Quốc hội (2019), Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2019;

Chính phủ (2014), Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017;

Chính phủ (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP  ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập;

Chính phủ (2015), Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.