Tăng cường quản trị nhân lực ngành logistics để đáp ứng yêu cầu hội nhập, chuyển đổi số

Lã Thị Quỳnh Mai, Bùi Quỳnh Trang - Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông (Đại học Thái Nguyên)

Quản trị nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành logistics Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ. Để đáp ứng được những thách thức và cơ hội mới, ngành logistics Việt Nam cần tăng cường quản trị nhân lực theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp và linh hoạt. Bài viết phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường quản trị nhân lực ngành logistics của Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và chuyển đổi số.

Mở đầu

Nhân lực là nguồn lực chiến lược quyết định sự phát triển bền vững của một quốc gia, đặc biệt trong thời đại hội nhập quốc tế sâu rộng và tăng cường chuyển đổi số. Ngành logistics là một ngành có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số hiện nay.

Tuy nhiên, ngành logistics của Việt Nam còn gặp nhiều thách thức về nhân lực, như thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, thiếu đào tạo chuyên nghiệp, thiếu khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và kỹ thuật số, thiếu sự linh hoạt và sáng tạo trong giải quyết các vấn đề phát sinh.

Quyết định số 200/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025 đã chỉ ra một số mục tiêu phát triển cụ thể của ngành Logistics đến năm 2025, với tốc độ tăng trưởng 15-20%, tỷ trọng đóng góp GDP tăng từ 8 đến 10%; tỷ lệ gia công phần mềm tăng lên 50-60%; Đồng thời, quyết định cũng chỉ rõ quan điểm cần phát triển các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics về số lượng, quy mô, trình độ nhân lực… (Chính phủ, 2017).

Để phát triển nguồn nhân lực ngành logistics chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, các doanh nghiệp cũng cần có vai trò tích cực và chủ động trong việc xác định nhu cầu, tiêu chuẩn và kỹ năng của người lao động; tham gia vào việc thiết kế chương trình giáo dục, đào tạo; tạo điều kiện cho người lao động được học tập và rèn luyện; khen thưởng và khuyến khích người lao động có thành tích xuất sắc…

Quản trị nhân lực có vai trò rất quan trọng trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số. Quản trị nhân lực giúp các doanh nghiệp xây dựng và phát triển một nguồn nhân lực số có năng lực, kỹ năng và thái độ phù hợp với yêu cầu của thị trường và khách hàng, đáp ứng được các thách thức và cơ hội từ chuyển đổi số. Chính vì vậy việc tăng cường quản trị nhân lực ngành logistics của Việt Nam là một trong những yếu tố then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế sâu rộng của nền kinh tế.

Thực trạng nguồn nhân lực ngành logisctics của Việt Nam hiện nay

Theo Báo cáo logistics Việt Nam năm 2022, Việt Nam hiện có hơn 30.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong lĩnh vực logistics. Thị trường logistics có sự tham gia của hơn 5.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics 3PL, trong đó, chiếm 89% là doanh nghiệp trong nước, 10% là doanh nghiệp liên doanh và 1% là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia, với các tên tuổi lớn nằm trong danh sách 50 công ty logistics thế giới lớn nhất như: DHL, Kuehne + Nagel, DSV, DB Schenker...

Cho dù các doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ lệ lớn nhưng lại chỉ chiếm khoảng 30% thị phần, còn lại thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài vì doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, quy mô hạn chế cả về vốn và nhân lực cũng như kinh nghiệm hoạt động quốc tế, chưa có sự liên kết giữa các khâu trong chuỗi cung ứng logistics và giữa doanh nghiệp dịch vụ logistics với doanh nghiệp xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương, 2023). Nguồn nhân lực hiện không đáp ứng được yêu cầu của ngành dịch vụ Logistics, đặc biệt thiếu cả số lượng và chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao. Như vậy, vấn đề nguồn nhân lực đang là một khó khăn lớn còn tồn tại đối với ngành logistics của Việt Nam.

Báo cáo logistics Việt Nam năm 2022 dự kiến đến năm 2030, nhu cầu bổ sung thêm nguồn nhân lực về logistics là trên 200.000 lao động. Trong khi đó, khả năng đáp ứng về nhu cầu nguồn nhân lực logistics chỉ khoảng 10% nhu cầu thị trường. Theo kết quả khảo sát, số lao động được đào tạo bài bản về dịch vụ logistics chỉ chiếm khoảng 5 - 7% số lao động hiện đang làm việc trong lĩnh vực này, nên có thể nói, nguồn nhân lực logistics tại Việt Nam đang thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng.

Trên thực tế quy mô đào tạo chính quy dài hạn và đào tạo ngắn hạn chưa đáp ứng được nhu cầu nhân lực logistics của doanh nghiệp hiện nay. Có đến 85,7% doanh nghiệp Việt Nam phải tự đào tạo, bồi dưỡng nhân lực logistics thông qua thực tế công việc.

Theo kết quả khảo sát của Viện Nghiên cứu phát triển TP. Hồ Chí Minh về chất lượng nguồn nhân lực logistics, có đến 53,3% doanh nghiệp thiếu đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn và kiến thức về logistics, 30% doanh nghiệp phải đào tạo lại nhân viên và chỉ có 6,7% doanh nghiệp hài lòng với chuyên môn của nhân viên.

Kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu và Phát triển kinh tế (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân) cũng ghi nhận, có tới 80,26% nhân viên trong các doanh nghiệp logistics được đào tạo thông qua các công việc hàng ngày, 23,6% nhân viên tham gia các khóa đào tạo trong nước, 6,9% nhân viên được các chuyên gia nước ngoài đào tạo, chỉ có 3,9% được tham gia các khóa đào tạo ở nước ngoài (Bộ Công Thương, 2023).

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, yêu cầu về chất lượng trình độ chuyên môn và kỹ năng của nhân lực logistics ngày càng cần nâng cao. Để khai thác được tiềm năng và vượt qua được những rào cản, việc đầu tư vào quản trị nhân lực ngành logistics là điều cấp thiết và mang tính chiến lược.

Cơ hội và thách thức đối với quản trị nhân lực ngành logistics của Việt Nam

Bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số ảnh hưởng lớn đến các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có quản trị nhân lực. Bối cảnh này mang đến nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức, khó khăn đối với quản trị nhân lực ngành logistics Việt Nam.

Cơ hội

Trước tiên, hội nhập quốc tế mở ra nhiều cơ hội hợp tác, học hỏi và trao đổi kinh nghiệm với các đối tác nước ngoài trong lĩnh vực logistics, từ đó nâng cao kiến thức, kỹ năng và chất lượng dịch vụ của nhân lực ngành logistics Việt Nam. Tiếp theo, chuyển đổi số là một xu hướng không thể đảo ngược trong bối cảnh công nghệ thông tin và truyền thông phát triển vượt bậc. Chuyển đổi số giúp ngành logistics Việt Nam áp dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại và thông minh vào hoạt động quản lý, vận hành và giám sát chuỗi cung ứng, từ đó tăng hiệu quả, tiết kiệm chi phí và thời gian, cũng như nâng cao khả năng ứng phó với các biến động của thị trường. Chuyển đổi số không chỉ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, tăng hiệu suất và chất lượng, mà còn mở ra nhiều cơ hội mới cho việc hợp tác, kết nối và học hỏi với các đối tác quốc tế. Đồng thời, chuyển đổi số cũng giúp doanh nghiệp có những thay đổi về văn hóa, tổ chức và quản trị nhân lực để phù hợp với xu hướng của thời đại.

Trong bối cảnh chuyển đổi số, với ứng dụng của thành tựu cách mạng khoa học công nghệ mang đến cho quản trị nhân sự nhiều cơ hội đổi mới. Trí tuệ nhân tạo áp dụng chung với dữ liệu lớn sẽ góp phần thay thế công tác nhân sự như: tuyển dụng, đánh giá, đào tạo, phát triển và gắn kết nhân viên. Dữ liệu lớn sẽ gánh vác giúp các chuyên viên nhân sự những phần việc nặng nhọc nhất và chỉ để lại quyền quyết định, phương án xử lý cho chuyên viên nhân sự. Bên cạnh đó, trí tuệ nhân tạo cũng có thể tự động phân tích hoạt động của các nhân viên kinh doanh, đưa ra những khuyến nghị tự động về đào tạo để chuyên viên đào tạo quyết định thực thi các chương trình đào tạo trong doanh nghiệp.

Thách thức

Bên cạnh nhiều cơ hội có được, bối cảnh hiện nay cũng đặt ra cho quản trị nhân lực ngành logistics của Việt Nam không ít thách thức, cụ thể như:

- Thách thức về chất lượng và số lượng nhân lực ngành logistics Việt Nam. Theo báo cáo của Hiệp hội Logistics Việt Nam (VLA), hiện nay ngành logistics Việt Nam thiếu khoảng 20.000 lao động có trình độ cao, trong khi nhu cầu tuyển dụng hàng năm là khoảng 200.000 lao động. Ngoài ra, chất lượng nhân lực ngành logistics Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới, do thiếu các chương trình đào tạo chuyên sâu, thiếu kinh nghiệm thực tiễn và thiếu khả năng sáng tạo và ứng dụng công nghệ.

- Thách thức về việc thích ứng với các yêu cầu mới của khách hàng và thị trường. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số, khách hàng và thị trường ngày càng có nhiều yêu cầu cao hơn về chất lượng, tốc độ, an toàn và linh hoạt của dịch vụ logistics. Điều này đòi hỏi nhân lực ngành logistics Việt Nam phải nâng cao khả năng phân tích, dự báo và giải quyết các vấn đề phát sinh trong chuỗi cung ứng, cũng như khả năng giao tiếp, hợp tác và đàm phán với các bên liên quan.

- Thách thức về việc duy trì và phát huy văn hóa doanh nghiệp trong ngành logistics Việt Nam. Văn hóa doanh nghiệp là yếu tố quan trọng để tạo ra sự khác biệt và cạnh tranh cho một doanh nghiệp logistics. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số, ngành logistics Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các doanh nghiệp logistics nước ngoài, cũng như sự thay đổi liên tục của môi trường kinh doanh. Điều này đòi hỏi nhân lực ngành logistics Việt Nam phải có khả năng thích nghi, đổi mới và duy trì được văn hóa doanh nghiệp đặc trưng của mình.

Giải pháp tăng cường quản trị nhân lực ngành logistics đáp ứng yêu cầu mới

Trong bối cảnh hiện nay cần có những giải pháp tăng cường quản trị nhân lực ngành logistics của Việt Nam để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và chuyển đổi số. Một số giải pháp được đề xuất như sau:

Thứ nhất, xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo nhân lực logistics theo tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng nhu cầu của thị trường và các doanh nghiệp. Các chương trình đào tạo cần phải cập nhật liên tục các kiến thức và kỹ năng mới nhất về logistics, công nghệ thông tin và kỹ thuật số, cũng như các kỹ năng mềm như giao tiếp, làm việc nhóm, giải quyết vấn đề.

Thứ hai, tạo ra một môi trường làm việc thu hút, giữ chân và phát triển nhân lực logistics. Các doanh nghiệp cần có một chiến lược nhân sự rõ ràng, công bằng và minh bạch, đảm bảo các điều kiện làm việc an toàn, thoải mái và hiệu quả cho nhân viên. Đồng thời, cần có các chính sách khen thưởng, thăng tiến và đào tạo liên tục cho nhân viên, tạo ra cơ hội phát triển nghề nghiệp và sự gắn bó cho nhân viên.

Thứ ba, khuyến khích và hỗ trợ nhân lực logistics ứng dụng công nghệ thông tin và kỹ thuật số vào hoạt động logistics. Các doanh nghiệp cần đầu tư vào việc trang bị cho nhân viên các thiết bị, phần mềm và ứng dụng công nghệ thông tin và kỹ thuật số phù hợp với từng loại hình hoạt động logistics.

Thứ tư, thúc đẩy sự hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm giữa các bên liên quan trong ngành logistics. Cần có sự hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm giữa các bên liên quan để nâng cao hiệu quả và chất lượng của ngành logistics, đồng thời giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động logistics. Các bên liên quan cần thiết lập các kênh giao tiếp, trao đổi và hợp tác thường xuyên, cũng như tham gia vào các mạng lưới, hiệp hội và tổ chức chuyên ngành về logistics để học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm.Tăng cường quản trị nhân lực ngành logistics để đáp ứng yêu cầu hội nhập, chuyển đổi số - Ảnh 1

Tài liệu tham khảo:

  1. Ban Chấp hành Trung ương (2022), Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
  2. Bộ Công Thương (2023), Báo cáo Logistics Việt Nam 2022 Logistics Xanh, NXB Công Thương;
  3. Trần Thị Nguyệt Cầm, Hoàng Thị Cẩm Tú, Nguyễn Thị Linh (2023), Quản trị nguồn nhân lực số của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời đại 4.0, Tạp chí Thông tin đối ngoại và Khoa học;
  4. Hiệp hội Logistics Việt Nam (2021), Kỷ yếu đại hội nhiệm kỳ VIII (2021 - 2024) Chuyển đổi số Sáng tạo đổi mới.
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 10/2023