"Thách thức kép" trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
(Taichinh) - Theo số liệu thống kê, sau 4 năm (2011 - 2014) cả nước mới cổ phần hóa được 242 doanh nghiệp nhà nước (DNNN), đạt 56% so với kế hoạch đề ra; số còn lại 289 DN, chiếm gần một nửa (44%) số DN phải hoàn thành cổ phần hóa trong năm 2015.
Đây là một áp lực lớn, bởi mục tiêu này đang gặp phải “thách thức kép”: Vừa phải hoàn thành tiến độ và kế hoạch cổ phần hóa, vừa phải đảm bảo chất lượng cổ phần hóa, trong đó nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng cổ phần hóa là tạo ra động lực mới nhờ đổi mới quản trị DN (quản trị DN) và sự đột phá do có sự tham gia của nhân tố nhà đầu tư - cổ đông chiến lược.
Theo phân tích của các chuyên gia, việc cổ phần hóa chậm, chưa đúng với lộ trình, chưa bảo đảm tiến độ, còn nhiều đối tượng DN quy mô lớn chưa cổ phần hóa do nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó chủ yếu là tình hình kinh tế vĩ mô không thuận lợi đã ảnh hưởng đến tiến độ cổ phần hóa. Số lượng DN cổ phần hóa được trong 4 năm 2011, 2012, 2013, 2014 từ rất ít đến tăng dần (tương ứng các năm là 12, 13, 74, 143 DN).
Một mặt, kinh tế vĩ mô không thuận lợi, kinh tế suy giảm ảnh hưởng rất lớn đến cầu của thị trường, từ đó ảnh hưởng đến IPO các DN cổ phần hóa. Mặt khác, trong những năm này Chính phủ và các bộ, ngành tập trung nhiều nỗ lực vào điều hành ổn định kinh tế vĩ mô, vì thế cũng ảnh hưởng đến các nỗ lực thực hiện cổ phần hóa và tiến độ cổ phần hóa.
Cho đến nay, cổ phần hóa chủ yếu tiến hành đối với các DNNN quy mô nhỏ để giảm mạnh số lượng DNNN. Số DNNN còn lại chưa cổ phần hóa và sẽ cổ phần hóa tiếp là những DNNN quy mô lớn, chủ yếu là tập đoàn kinh tế và tổng công ty. Việc cổ phần hóa các DNNN quy mô lớn, các tập đoàn kinh tế và tổng công ty khó tiến hành hơn vì có nhiều vấn đề hơn DNNN nhỏ. DN lớn như các tập đoàn kinh tế và tổng công ty buộc phải tái cơ cấu lại trước khi cổ phần hóa, như: Phải sắp xếp lại sản xuất, tái cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh, thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính, cơ cấu lại tổ chức, bộ máy, cán bộ, lao động..., nên đã ảnh hưởng đến tiến độ, lộ trình cổ phần hóa.
Một lý do nữa không thể bỏ qua là bài toán lợi ích giữa chưa cổ phần hóa và cổ phần hóa, thời điểm tiến hành cổ phần hóa đối với DN và đối với cá nhân của những người đứng đầu, người lãnh đạo, quản lý DN. Đây là một lý do làm chậm quá trình cổ phần hóa. Ngoài ra, việc cổ phần hóa các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước cũng đang phải đối diện với không ít những vấn đề, như: tình trạng DN sau cổ phần hóa vẫn chưa thoát ra khỏi phương thức hoạt động của DNNN cũ, vẫn chưa đột phá mạnh về tư duy, hành động trong quản trị, điều hành, năng lực quản lý, khả năng cạnh tranh, tính công khai, minh bạch, khó tìm được cổ đông chiến lược, cách lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, vai trò cổ đông nhà nước bị quá lạm dụng hoặc trong trình trạng chỉ giữ vai trò như người giữ vốn nhà nước.
Mục tiêu cổ phần hóa, ngoài việc đa dạng hoá sở hữu, giảm tính độc tôn của sở hữu nhà nước, là chuyển DNNN thành DN cổ phần với cấu trúc quản trị hiện đại, đồng thời sau cổ phần hóa tiếp tục cải thiện quản trị DN theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, trên thực tế quản trị DN tại các DN chuyển từ DNNN thành công ty cổ phần nhìn chung chưa có nhiều chuyển biến, thay đổi rõ rệt. Trong khi, sự phân biệt rạch ròi giữa 2 loại thoái vốn là chưa có. Cụ thể là, chưa xác định rõ tính chất, mục tiêu, thẩm quyền quyết định đối với từng loại thoái vốn. Vẫn còn tình trạng đánh đồng giữa thoái vốn đầu tư ngoài ngành theo chủ trương tái cơ cấu DNNN và thoái vốn để tiếp tục cổ phần hóa DN có vốn nhà nước ở giai đoạn sau cổ phần hóa.
Để giải bài toán trên, các chuyên gia cho rằng, ngoài việc đổi mới nhận thức về cổ phần hoá và tư nhân hoá thì điều quan trọng là không nên chạy theo tiến độ cổ phần hóa bằng mọi giá. Theo kế hoạch đưa ra là 2 năm 2014 - 2015 phải cổ phần hóa 432 DNNN. Năm 2014 đã cổ phần hóa 143 DN, số còn lại của năm 2015 là 289 DN, đây là con số cao hơn rất nhiều so với bình quân năm ở các giai đoạn 2011 - 2015. Trong bối cảnh kinh tế suy thoái và mới dần chuyển sang phục hồi thì kế hoạch cổ phần hóa này là rất tham vọng cả về con số DN cổ phần hóa và tiến độ thực hiện.
Có một số lý do để có thể xem xét lại kế hoạch và tiến độ cổ phần hóa năm 2015: (i) Số lượng DN đưa vào kế hoạch cổ phần hóa năm 2015 cao hơn rất nhiều so với trung bình hàng năm của giai đoạn 2011 - 2014 khi kinh tế suy thoái mạnh và chỉ mới bắt đầu phục hồi chậm. Nhìn từ số liệu DN cổ phần hóa trong 3 năm 2011 - 2013 cho thấy, kinh tế suy giảm sâu đã ảnh hưởng rất lớn đến cầu của nền kinh tế, từ đó có ảnh hưởng đến lượng cổ phần IPO hay bán ra được từ các DN cổ phần hóa. Trong bối cảnh đó, việc cổ phần hóa là không thật có lợi nhìn từ phía cung là DNNN và Nhà nước; (ii) Cổ phần hóa trong bối cảnh tái cơ cấu đòi hỏi tiến hành tái cơ cấu DN trước - một giai đoạn cần thiết trước khi cổ phần hóa. Cần dành thời gian cho tái cơ cấu DN thay vì chạy theo tiến độ, hoàn thành cổ phần hóa ngay; (iii) Điều quan trọng đối với DN cổ phần hóa không phải chỉ là hoàn thành cổ phần hóa, đăng ký DN thành công ty cổ phần, mà chủ yếu ở việc cải thiện quản trị DN, hiện đại hóa DN để tăng sức cạnh tranh. Điều này cũng cần có nhiều thời gian hơn.
Bên cạnh đó, cần thay đổi quan điểm và cách tiếp cận cổ phần hóa trong tái cơ cấu DNNN. Cách tiếp cận cơ cấu lại DNNN và cổ phần hóa là chuyển mạnh sang áp dụng các biện pháp tái cấu trúc có tính thị trường nhưng cũng nên sử dụng quyền lực của chủ sở hữu một cách đúng đắn và minh triết. Đó là, thực hiện các biện pháp tạo lập, kích thích, nuôi dưỡng, phát triển những yếu tố thị trường trong loại bỏ hay tiếp tục duy trì DNNN. Đồng thời, tạo sức ép hành chính đối với cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu không đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu, cổ phần hóa.
Đối với các DNNN quy mô lớn như tập đoàn kinh tế, tổng công ty hoạt động trong những ngành, lĩnh vực quan trọng, việc cổ phần hóa cần phải có sự lựa chọn và các bước đi phù hợp với điều kiện của đất nước cũng như định hướng phát triển kinh tế của Đảng. Việc cổ phần hóa không thể thực hiện ồ ạt ngay từ thời điểm cổ phần hóa mà phải được tiến hành theo nhiều giai đoạn phù hợp với kế hoạch và lộ trình giảm dần tỷ lệ vốn nhà nước. Hay nói cách khác, cần có những hướng dẫn cụ thể và các bước triển khai thận trọng khi cổ phần hóa các DNNN quy mô lớn, tổng công ty hoạt động trong những ngành, lĩnh vực quan trọng.
Đồng thời, cần xem xét điều chỉnh lại cách thức thoái vốn đầu tư ngoài ngành hiện nay theo một số nguyên tắc: Nhà nước chỉ nên đưa ra chủ trương thoái vốn đầu tư ngoài ngành và đưa ra một số nguyên tắc chung căn cứ vào đó để DN áp dụng; không nên quy định cụ thể tỷ lệ % thoái vốn, vì như vậy là can thiệp sâu vào DN, trái với nguyên tắc thị trường và thể chế thị trường chúng ta đang xây dựng và hướng tới. Nhà nước chỉ hành xử trên tư cách và với tâm thế của nhà đầu tư, cổ đông nhà nước, thực hiện quyền của nhà đầu tư, cổ đông nhà nước không phải với tư cách cơ quan quản lý nhà nước. Không nên chuyển tải ý chí Nhà nước bằng các quy định có tính quy phạm pháp luật có hiệu lực chung.
Thoái vốn đầu tư ngoài ngành cần căn cứ đặc điểm của từng DN, chủ yếu là hiệu quả đầu tư trong và ngoài ngành; tiềm lực tài chính DN; triển vọng ngành kinh doanh chính; sản phần ngành kinh doanh chính ở giai đoạn nào, nếu ở giai đoạn thoái trào thì cần xem lại chính sách thoái vốn ngoài ngành kinh doanh chính, để chuyển sang đầu tư ngành kinh doanh chính mới triển vọng hơn. Đối với DN đang kinh doanh có hiệu quả ở cả ngành kinh doanh chính và ngoài ngành kinh doanh chính thì quyền quyết định thoái vốn đầu tư ngoài ngành cần trao cho bộ máy quản trị, điều hành của DN căn cứ theo tín hiệu thị trường.