Tháo gỡ “nút thắt” trong liên kết kinh tế vùng ở Việt Nam

TS. Tạ Thị Đoàn - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Vấn đề liên kết kinh tế, liên kết vùng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong nhiều năm qua để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Việc liên kết vùng sẽ tạo ra những lợi thế cạnh tranh mới, phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương và cả vùng trong phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực tiễn liên kết kinh tế vùng thời gian qua đã bộc lộ không ít hạn chế, hiệu quả mang lại chưa như kỳ vọng. Để tiếp tục phát triển liên kết kinh tế vùng có hiệu quả, đòi hỏi phải điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ những “nút thắt”, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc phát triển liên kết kinh tế vùng bền vững.

Xu hướng phát triển liên kết kinh tế vùng ở các quốc gia

Trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy, mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu gắn với bối cảnh hội nhập và hiện đại. Điều đó đòi hỏi cần thiết xác lập các liên kết kinh tế giữa các chủ thể liên quan nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh tối ưu.

- Liên kết kinh tế: Là sự phối hợp hoạt động trong quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế độc lập với nhau theo một thỏa thuận, chịu sự chi phối của các chế định thể chế gắn với các hình thức tổ chức kinh tế đặc thù, phát huy sức mạnh tổng thể của các bên tham gia liên kết nhằm đạt được mục tiêu của các chủ thể tham gia quá trình liên kết, từ đó đạt được tính toàn dụng của nền kinh tế. Mỗi chủ thể tham gia liên kết kinh tế được hưởng lợi nhiều hơn so với việc nằm ngoài liên kết.

- Liên kết vùng: Là sự thiết lập mối quan hệ hợp tác giữa các thành viên trong vùng và giữa các thành viên trong vùng với các thành viên khác ngoài vùng, đó là sự phân công, phối hợp với nhau nhằm khai thác những lợi thế của nhau, tạo ra mô hình tổ chức sản xuất mới, tạo ra sức mạnh mới mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn. Liên kết vùng không những tạo động lực phát triển kinh tế mà còn giúp các vùng khó khăn thực hiện tốt chức năng bảo tồn tài nguyên, sinh thái, ổn định an ninh, chính trị, xã hội.

- Liên kết kinh tế vùng: Là sự liên kết giữa các chủ thể kinh tế khác nhau (hộ dân/ hợp tác xã/ doanh nghiệp/ địa phương) trong nội vùng/giữa các vùng nhằm phát huy lợi thế so sánh, tạo ra tính cạnh tranh kinh tế cao hơn cho một vùng. Phương thức liên kết rất đa dạng, có thể là tập trung phát triển một hạt nhân trung tâm, xung quanh là các vệ tinh hoặc cũng có thể tham gia trong chuối giá trị sản phẩm mà mỗi chủ thể đảm nhận tốt nhất một khâu/công đoạn trong chuỗi giá trị đó, góp phần khai thác lợi thế, tiềm năng của các địa phương, vùng, góp phần quan trọng vào phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội. Các hình thức liên kết vùng có thể trên các khía cạnh không gian kinh tế theo lãnh thổ, chuỗi ngành hàng, tổ chức sản xuất.

Phát triển liên kết vùng là phát triển mối quan hệ giữa không gian kinh tế với không gian tự nhiên, sinh thái, xã hội và không gian chính sách, thể chế để tạo ra lợi thế cạnh tranh cho vùng, quốc gia, là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Liên kết phát triển vùng trở thành xu hướng và là bước đột phá mạnh mẽ nhằm tạo động lực và thu hút các nguồn lực cho hiện thực hóa các mục tiêu phát triển được xác định trong chiến lược và quy hoạch phát triển ở các địa phương, vùng và quốc gia trong bối cảnh mới hiện nay.

Những tác động của bối cảnh mới hiện nay cho thấy, việc thực hiện liên kết kinh tế vùng như một tất yếu, cụ thể là:

Thứ nhất, nền kinh tế tiếp tục chịu ảnh hưởng nặng nề từ các cuộc xung đột, khủng hoảng khu vực và quốc tế, cũng như tác động xấu từ đại dịch COVID-19 đòi hỏi các địa phương cần tăng cường sự phối hợp và liên kết trong các lĩnh vực hỗ trợ phát triển kinh tế như liên kết thu hút đầu tư phát triển, hoàn thiện kết cấu hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, mở rộng thị trường và hợp tác quốc tế… Việc ứng phó với biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường cũng đòi hỏi sự liên kết giữa các địa phương, quốc gia để cùng nhau giải quyết.

Thứ hai, sự phát triển kinh tế của các quốc gia xu hướng diễn ra ngày càng nhanh, kết hợp với quá trình hội nhập sâu rộng đã và đang tạo ra những mạng lưới sản xuất toàn cầu với nhiều dạng thức liên kết khác nhau. Việc tăng cường liên kết các chủ thể liên quan của địa phương sẽ giúp thúc đẩy thực thi các vấn đề hội nhập quốc tế có hiệu quả hơn ở từng địa phương.

Thứ ba, tác động mạnh mẽ từ sự phát triển của khoa học công nghệ và Cách mạng công nghiệp 4.0 đã thúc đẩy sự biến đổi mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, đưa tới sự cải biến tư duy của chủ thể kinh tế về các quan niệm địa kinh tế trong phát triển vùng lãnh thổ, đồng thời giúp cải tiến thể chế điều phối vùng.

Thứ tư, xu hướng liên kết trong giải quyết các vấn đề chung của khu vực hay một vùng ở các quốc gia đã và đang góp phần đáng kể vào tiến trình phát triển bền vững vùng lãnh thổ.

Thứ năm, hậu đại dịch COVID-19, các dịch bệnh và những xung đột giữa các nước, các khối liên minh đang đặt ra những thách thức không hề nhỏ và ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế thế giới. Do đó, xu hướng liên kết là cần thiết để các chủ thể gia tăng sức mạnh trong ứng phó với tác động của các ngoại ứng tiêu cực.

Liên kết kinh tế vùng để tái phân công lao động và phối hợp trên quy mô vùng, cả trong đột phá về thể chế, đột phá về phát triển nhân lực và đột phá về phát triển kết cấu hạ tầng tạo đà chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo sức hấp dẫn mới thu hút nguồn vốn đầu tư cho phát triển là xu hướng tất yếu hiện nay của các quốc gia trong quá trình phát triển.

Hiện trạng phát triển liên kết vùng ở Việt Nam

Thúc đẩy liên kết vùng luôn là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu và được nhắc đến trong các văn kiện của Đảng. Nhận rõ tầm quan trọng của liên kết vùng với phát triển kinh tế - xã hội đất nước, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng đã nêu rõ: “Thống nhất quản lý tổng hợp chiến lược, quy hoạch phát triển trên quy mô toàn bộ nền kinh tế, vùng và liên vùng. Đổi mới cơ chế phân cấp, phân quyền, gắn với phân định và nâng cao trách nhiệm của trung ương và địa phương. Thực hiện quy hoạch vùng, chính sách vùng; sớm xây dựng và thể chế hóa cơ chế điều phối liên kết vùng theo hướng xác định rõ vai trò đầu tàu và phân công cụ thể trách nhiệm cho từng địa phương trong vùng. Khắc phục tình trạng nền kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính hoặc đầu tư dàn trải, trùng lặp”.

Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: Tăng cường liên kết về mặt không gian “giữa các địa phương trong vùng” và “giữa các vùng”, tạo sự “phát triển thống nhất trong vùng và cả nước”; nhằm mục tiêu “phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của từ vùng, từng địa phương”, “ứng phó có hiệu quả với thiên tai, biến đổi khí hậu”, “khắc phục tình trạng phát triển trùng dẫm, manh mún, kém hiệu quả”.

Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, phấn đấu đến năm 2030 nước ta trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao; đồng thời định hướng phát triển vùng theo hướng: “Khai thác tốt hơn và phát huy tốt nhất các lợi thế của mỗi vùng về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa kinh tế - chính trị, nguồn nhân lực và tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng để tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát triển mới...”.

Hoạt động liên kết vùng trong vùng thời gian qua ở Việt Nam đã đạt được các thành tựu đáng khích lệ, có thể khái quát như sau:

Một là, khắc phục được một phần tình trạng biệt lập trong hoạch định và thực thi chính sách của các địa phương.

Hai là, góp phần kết nối đồng bộ kết cấu hạ tầng vùng và liên vùng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các chủ thể tham gia liên kết.

Ba là, tạo sự chia sẻ, lan tỏa kinh nghiệm tốt trong quản lý nhà nước của các địa phương tham gia liên kết vùng.

Bốn là, giải quyết hài hòa hơn các quan hệ lợi ích giữa các địa phương trong vùng về thu hút đầu tư, về khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên và giảm thiểu ô nhiễm môi trường, các vấn đề xã hội đảm bảo phát triển bền vững.

Năm là, cùng bàn bạc và có những đề xuất chính sách/dự án chung đối với vùng và liên vùng góp phần thu hút các chủ thể khác trong nền kinh tế, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp tham gia hợp tác.

Dù có nhiều cải thiện, tuy nhiên chất lượng và phạm vi hoạt động liên kết vùng còn chưa tương xứng với yêu cầu và bối cảnh phát triển. Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 21/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện thể chế liên kết vùng kinh tế - xã hội đã nhận định: Thể chế liên kết vùng vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Cụ thể, chủ trương, chính sách về liên kết vùng chậm đi vào thực thi; vai trò của chủ thể tham gia liên kết vùng, đặc biệt là chính quyền trung ương, còn mờ nhạt và cơ chế thực thi chính sách liên kết vùng chưa phát huy hiệu lực và hiệu quả cao nhất.

Những hạn chế này đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả của các hoạt động liên kết vùng như: các thỏa thuận liên kết còn mang tính hình thức, chưa có sự phối hợp thực chất; các liên kết về kinh tế giữa các địa phương chưa dựa trên sự chuyên môn hóa hay phân công lao động theo chuỗi giá trị, hay phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ; các địa phương trong vùng chú trọng phát triển liên kết với những thành phố lớn, đóng vai trò đầu tàu (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh), chưa quan tâm đến liên kết giữa các địa phương trong vùng; chưa có nhiều liên kết vùng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp hình thành cụm liên kết ngành…

Có thể thấy các nút thắt cần được tháo gỡ trong phát triển liên kết kinh tế vùng ở Việt Nam thời gian qua:

Một là, cơ chế hoạt động và tổ chức hoạt động của cơ quan điều phối vùng và liên kết vùng chưa thực sự rõ ràng, nhất là cơ chế phối hợp và nhiệm vụ của các tổ điều phối, nếu không có thể chế cụ thể sẽ dẫn đến tình trạng mỗi vùng/địa phương có một cách thức tổ chức, hoạt động khác nhau.

Hai là, thiếu nguồn lực thực hiện chính sách liên kết vùng. Thiếu cơ chế để điều tiết lợi ích được tạo ra từ liên kết, điều tiết các nguồn lực phân bổ cho các dự án.

Ba là, vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển các vùng kinh tế; tập trung các nguồn lực quốc gia và xã hội phát triển hạ tầng để phát triển kinh tế vùng và tăng cường liên kết vùng còn hạn chế.

Trước khi có Luật Quy hoạch thì vai trò của quy hoạch vùng và quy hoạch ngành còn mờ nhạt, thiếu kết nối giữa các loại quy hoạch, giữa chiến lược - quy hoạch - kế hoạch - đầu tư, thậm chí còn xung đột, mâu thuẫn, chồng chéo. Việc tổ chức triển khai thực hiện quy hoạch còn nhiều bất cập, quy hoạch thường xuyên bị điều chỉnh gây lãng phí tài nguyên và cản trở thu hút đầu tư của xã hội. Chất lượng quy hoạch còn thấp, không gắn với nguồn lực thực hiện.

Bốn là, thiếu hệ thống hạ tầng giao thông, đường kết nối giữa các địa phương. Các tuyến liên kết nội vùng chưa được đầu tư đồng bộ, liên thông. Đặc biệt, hệ thống đường kết nối Đông - Tây còn ít. Sự phối hợp giữa các phương thức vận tải chưa hợp lý, đồng bộ, tính kết nối không cao. Hệ thống đường giao thông biên giới còn nhiều khó khăn. Hạ tầng đường sắt không phù hợp cho kết nối quốc tế.

Năm là, thiếu thể chế quản trị, điều phối liên kết kinh tế vùng hiệu quả. Cơ chế hợp tác còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Các địa phương vẫn chủ yếu tập trung phát triển trong địa giới hành chính của mình, ít phối hợp với các tỉnh lân cận để phát huy lợi thế nhờ vào quy mô. Nhiều cụm, ngành kinh tế và sản phẩm chủ lực có lợi thế chưa được liên kết tốt. Chưa có cơ chế hỗ trợ về tài chính hiệu quả đối với các chủ thể kinh tế khi tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất, chế biến, tiêu thụ các sản phẩm chủ lực của vùng.

Sáu là, thiếu cơ sở dữ liệu của vùng về các sản phẩm chủ lực, nguồn nhân lực, các ngành, lĩnh vực, sản phẩm lợi thế cụ thể, dẫn đến hợp tác liên kết nội vùng và liên vùng chưa hiệu quả.

Giải pháp tháo gỡ “nút thắt”

Để giải quyết bài toán liên kết kinh tế vùng, trong thời gian tới, cần thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức, tư duy về liên kết vùng để quán triệt các cấp, các ngành, các địa phương, huy động sức mạnh của các chủ thể liên quan nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương thành sức mạnh chung của vùng. Hoàn thiện thể chế quản trị vùng hiệu quả khi xác lập liên kết kinh tế vùng theo chuỗi giá trị cung ứng dịch vụ công nhằm hỗ trợ thúc đẩy các chủ thể phát triển bền vững. Khi xây dựng cơ chế, chính sách cần làm rõ thể chế quản trị liên kết vùng gắn với chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các chủ thể liên quan, đồng thời phải tính đến khả năng kết nối nội vùng, liên vùng của “không gian thực và ảo” để bao quát được hết các khả năng xảy ra trong thực tiễn liên kết và phát triển giữa các vùng.

Chính quyền địa phương cần tập trung tuyên truyền, làm rõ sự cần thiết và những lợi ích của liên kết vùng. Các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp làm tốt công tác tuyên truyền, vận động hội viên các đoàn thể và hội nghề nghiệp của mình tích cực tham gia liên kết sản xuất.

Sử dụng tốt phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức và khai thác các mạng xã hội như: zalo, facebook... để làm công tác tuyên truyền; củng cố và phát triển các hiệp hội doanh nghiệp, các hội nghề nghiệp để qua đó tuyên truyền vận động họ thực hiện các hình thức liên kết sản suất.

Thứ hai, xây dựng quy hoạch vùng chất lượng tốt, có tư duy tầm nhìn dài hạn và chiến lược, phân bổ không gian phát triển, phân bổ nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, sử dụng đất đai hợp lý, đào tạo phát triển nguồn nhân lực để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng.

Rà soát các quy hoạch (trong thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của chủ thể liên quan) để điều chỉnh hoặc phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng mới hoặc điều chỉnh các quy hoạch ngành phù hợp với nhu cầu phát triển của vùng và Luật Quy hoạch 2017 nhằm phát huy các lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế của địa phương, của vùng.

Khi xây dựng quy hoạch các địa phương cần có sự liên kết, phối hợp với các địa phương khác, đồng thời quy hoạch ngành nhất thiết phải phối hợp thống nhất với qui hoạch vùng lãnh thổ để tạo nên sức mạnh tổng hợp của các chủ thể trong liên kết kinh tế.

Thứ ba, xây dựng cơ sở dữ liệu về thông tin của bộ, ngành, địa phương và thông tin vùng. Xây dựng phương án huy động nguồn lực để triển khai các dự án có quy mô vùng và có tính chất liên vùng. Ban hành kịp thời các văn bản để điều chỉnh các hoạt động/nhiệm vụ liên quan tới vấn đề phát triển vùng và liên kết vùng.

Khi hình thành vùng, không vì tư duy “giảm đầu mối” các đơn vị trực thuộc mà cần thiết thành lập cơ quan thực hiện chức năng điều phối cho cả vùng, điều này sẽ mang lại lợi ích cho quốc gia và cho toàn vùng; vai trò, chức năng, nhiệm vụ, bộ máy vùng phải đảm bảo quyền lợi liên kết và đủ khả năng điều phối, lập kế hoạch cũng như điều hành toàn vùng; xây dựng định hướng vùng và quản lý chính sách vùng; thành lập bộ máy vùng đảm bảo tính tự nguyện và đảm bảo cả về pháp lý; các thành viên trong bộ máy vùng thực sự bình đẳng, không lạm dụng vai trò lãnh đạo địa phương khi tham gia điều phối vùng để đưa ra các quyết định có lợi cho địa phương mình, đồng thời mời các chuyên gia am hiểu vùng tham gia tư vấn, phản biện cho các chiến lược phát triển vùng.

Trong bối cảnh mới hiện nay đã được nêu trong Báo cáo Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2021-2030 của Văn kiện Đại hội XIII: “Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn biến rất nhanh, đột phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu. Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Công nghệ số sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số; làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước, mô hình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hóa, xã hội”.

Để góp phần triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đòi hỏi Việt Nam cần đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển sang mô hình tăng trưởng mới có chất lượng cao và phát triển bền vững. Trong đó vấn đề làm thế nào để phát huy vai trò liên kết kinh tế vùng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có tư duy tổng thể, khoa học và toàn diện, nhất là các “nút thắt” trong liên kết kinh tế vùng hiện nay phải được tháo gỡ thông qua việc hoàn thiện thể chế liên kết kinh tế vùng.

Tài liệu tham khảo:

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội;
  2. Chính phủ (2022), Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 21/4/2022 về các nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện thể chế liên kết vùng kinh tế - xã hội;
  3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2021), Đề án Thể chế liên kết vùng;
  4. Trần Thị Hồng Minh, Nguyễn Anh Dương, Nguyễn Hoàng Kim Ngân (2023), Giải pháp hoàn thiện thể chế liên kết vùng kinh tế - xã hội, https://kinhtevadubao.vn/giai-phap-hoan-thien-the-che-lien-ket-vung-kinh-te-xa-hoi-25096.html;
  5. Tuệ Văn (42022), Hoàn thiện thể chế liên kết vùng kinh tế - xã hội, https://baochinhphu.vn/hoan-thien-the-che-lien-ket-vung-kinh-te-xa-hoi-102220421191121575.htm;
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 7/2023