Vận dụng lý thuyết dự phòng trong kế toán quản trị chiến lược tại các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam
Môi trường hội nhập kinh doanh hiện nay đang tạo ra áp lực cạnh tranh để phát triển cho các doanh nghiệp (DN). Để thắng thế, DN cần nhiều thông tin về quản trị để xây dựng chiến lược cạnh tranh và kinh doanh có hiệu quả. Kế toán quản trị chiến lược là hệ thống thông tin kế toán quản trị được dùng để hỗ trợ nhà quản trị ra quyết định mang tính chiến lược khi nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng. Tuy nhiên, hiện nay, kế toán quản trị chưa được coi trọng đúng mức trong phần lớn DN Việt Nam, mặt khác khung khổ pháp lý về lĩnh vực này còn hạn chế. Bài viết tìm hiểu về việc vận dụng lý thuyết dự phòng trong kế toán quản trị chiến lược tại các DN thủy sản Việt Nam.
Đặt vấn đề
Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn nữa, các DN cần một hệ thống cung cấp thông tin để có thể hoạch định chiến lược, đó là hệ thống kế toán quản trị chiến lược (KTQTCL). Đối với các DN thủy sản, theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), đến giữa tháng 3/2023, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 1,4 tỷ USD, giảm 28% so với cùng kỳ năm 2022. Tính chung 3 tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản đạt khoảng 1,85 tỷ USD, giảm 27% so với cùng kỳ năm trước.
Khả năng cạnh tranh của các sản phẩm thủy sản phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như giá cả, chất lượng, mẫu mã và các biện pháp marketing, các kênh phân phối nên các DN thuỷ sản Việt Nam cần phải sử dụng các công cụ quản trị hiệu quả nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh. Trong đó, vận dụng lý thuyết dự phòng trong KTQTCL là nội dung quan trọng, giúp các DN quản lý tốt chi phí từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Lý thuyết dự phòng và kế toán quản trị chiến lược
Lý thuyết dự phòng
Lý thuyết dự phòng là một trong các lý thuyết phổ biến được dùng trong các nghiên cứu KTQT nói chung. Theo Gosselin (1997), chiến lược kinh doanh là yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình thực hiện đổi mới hệ thống KTQT. Frederick Taylor (1911) và Henri Fayol (1949) cho rằng, các nguyên tắc quản lý chung sẽ làm cho các công ty thành công hơn. Tuy nhiên, Taylor cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lựa chọn hình thức quản lý phù hợp nhất với một trường hợp cụ thể. Trong nghiên cứu của Henri Fayol cho thấy, không thể cứng nhắc hay tuyệt đối trong công việc quản lý. Nghiên cứu trong thời kỳ này nhấn mạnh sự khác biệt về cấu trúc giữa các tổ chức. Các nghiên cứu này nêu lý do tại sao cấu trúc tổ chức lại khác nhau và chỉ ra 3 vấn đề: Không có cách tổ chức chung tốt nhất cho mọi tổ chức; cung cấp một khái niệm chính xác hơn để mô tả quản lý tổ chức và đề xuất các yếu tố môi trường cho những cách tổ chức khác nhau (Van de Ven và cộng sự, 2013). Đây là nền móng ban đầu cho sự ra đời của lý thuyết dự phòng, lý thuyết mô tả sự đa dạng của các cấu trúc và hành vi tổ chức. Vào giữa những năm 1960, lý thuyết dự phòng đã được phát triển sử dụng bởi các nhà nghiên cứu KTQT giữa những năm 1970 đến những năm 1980. Lý thuyết dự phòng có tầm quan trọng đáng kể để nghiên cứu KTQT, vì nó đã thống trị kế toán hành vi từ năm 1975. Hơn nữa, lý thuyết dự phòng được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu về KTQT của Otley (1980).
Trong hai thập niên cuối của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu KTQT thay đổi tập trung các biến như văn hóa (Harrison và McKinnon 1999) và chiến lược (Langfield- Smith 2006). Bên cạnh đó, công nghệ là một biến ảnh hưởng lớn đến nghiên cứu KTQT. Những thay đổi về công nghệ được sử dụng bởi các tổ chức thường dẫn đến những thay đổi trong các yêu cầu của tổ chức về KTQT. Bên cạnh đó, các nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực kế toán chỉ ra rằng, các yếu tố về sự biến động về môi trường kinh doanh và chiến lược môi trường kinh doanh có ảnh hưởng đến việc lựa chọn hệ thống thông tin kế toán (Hutaibat, 2005). Các nhà nghiên cứu khác cũng đồng quan điểm khi cho rằng, chiến lược kinh doanh là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thiết kế hệ thống thông tin kế toán và quá trình đổi mới kế toán (Chandler, 1990; Chenhall, 2003).
Đặc biệt, đến giữa những năm 1970, đã có một khung lý thuyết tạm thời xoay quanh lý thuyết dự phòng (Üsdiken, 2008). Các nghiên cứu nổi bật nhất và được trích dẫn thường xuyên nhất trong lý thuyết dự phòng đến từ Anh (Woodward (1958, 1965); Burns và Stalker (1961); Pugh (1973); Pugh và cộng sự (1968), (1969); Emery và Trist (1965); Child (1972) và Hoa Kỳ (Chandler (1962); Lawrence và Lorsch (1967); Perrow (1967); Thompson (1967); Blau (1970); Hage và Aieken (1967).
Kế toán quản trị chiến lược
Khái niệm về KTQTCL (SMA) lần đầu tiên được đề cập bởi Simmonds vào năm 1981 đăng trên Tạp chí Quản lý kế toán số 59 (Roslender và Hart, 2003; Cinquini và Tenucci, 2010; Langfield-Smith, 2008). Theo đó, Simmonds định nghĩa KTQTCL là cung cấp và phân tích dữ liệu KTQT về DN và đối thủ cạnh tranh của mình, để sử dụng trong kiểm soát và phát triển chiến lược kinh doanh. Ông cho rằng, thông tin về đối thủ cạnh tranh (những thông tin liên quan đến chi phí, giá, thị phần…) có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng và giám sát chiến lược kinh doanh. Bromwich (1990) tin rằng, KTQTCL cung cấp thông tin tài chính về thị trường, chi phí sản phẩm và cấu trúc chi phí của các đối thủ cạnh tranh. Bromwich cũng phát triển thêm luận điểm của Simmonds, ông cho rằng, không chỉ cần so sánh DN với các đối thủ cạnh tranh mà còn cần đánh giá “lợi ích từ sản phẩm của DN trên góc độ khách hàng và trên góc độ DN”.
Như vậy có thể hiểu KTQTCL là việc thu thập, xử lý, phân tích dữ liệu KTQT về DN, đối thủ cạnh tranh và khách hàng, nhằm sử dụng cho việc phát triển và giám sát chiến lược kinh doanh của DN.
Vai trò của kế toán quản trị chiến lược:
KTQTCL có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin để đáp ứng các yêu cầu nhằm giúp nhà quản trị thực hiện toàn diện các chức năng quản trị. Thông tin do KTQTCL cung cấp bao gồm, các thông tin chi tiết liên quan đến chi phí sản xuất kinh doanh, phục vụ cho việc hoạch định chiến lược chi phí của nhà quản trị, bao gồm các quyết định trung hạn và quyết định dài hạn, có ảnh hưởng đến chiến lược hoạt động của DN. Theo đó vai trò của KTQTCL được thể hiện như sau:
- Các thông tin kinh tế bên ngoài từ KTQT có thể giúp DN lập kế hoạch cho những thay đổi nằm ngoài sự kiểm soát của DN như đối thủ cạnh tranh mới ra nhập thị trường hoặc các mối đe dọa từ hàng hóa, dịch vụ thay thế cạnh tranh với thị phần của DN. Điều này rất có ý nghĩa đối với các DN Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng quyết liệt do thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế và các hiệp định tự do thương mại.
- KTQTCL cố gắng giảm chi phí trong hoạt động kế toán của DN bằng cách giao thêm cho nhân viên KTQT việc lập kế hoạch chiến lược và quyết định quy trình hoạt động của DN. Do đó, nhà quản trị DN cũng phải thay đổi tư duy trong hoạt động kinh doanh với kế toán của họ.
- KTQTCL có thể hỗ trợ phát triển chiến lược chi phí thấp nhất và dự báo sức mạnh của nền kinh tế có thể giúp các DN cải thiện thị phần của mình trên thị trường. KTQTCL cũng có thể giúp một DN lựa chọn được lĩnh vực nhất định để nâng cao tỷ suất lợi nhuận và cắt giảm các hoạt động gây lãng phí. Đây là một trong những mục tiêu quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đang nâng cao năng suất, chất lượng trong hoạt động của DN.
Vận dụng lý thuyết dự phòng trong kế toán quản trị chiến lược tại các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam
Thủy sản là một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế. các DN thuỷ sản Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân không chỉ về mặt giá trị kinh tế mà còn tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. Việc vận dụng lý thuyết dự phòng trong các DN thủy sản là cần thiết. Từ các nghiên cứu lý thuyết dự phòng và KTQT, cũng như sự phát triển của KTQTCL, các nhà nghiên cứu đã vận dụng lý thuyết dự phòng trong KTQTCL, vì chúng có mối quan hệ với các yếu tố bên ngoài DN. Trong bối cảnh KTQTCL, cách tiếp cận dự phòng dựa trên tiền đề là không có hệ thống kế toán chung, phù hợp với tất cả các tổ chức trong mọi hoàn cảnh (Otley, 1980, Emmanuel et al., 1990; Islam và Hu, 2012). Thay vào đó, các nhà nghiên cứu cho rằng, một hệ thống kế toán thích hợp phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể mà một tổ chức tự nhận thấy. Do đó, lý thuyết dự phòng xác định các khía cạnh cụ thể của hệ thống kế toán gắn với hoàn cảnh xác định.
Các nhà nghiên cứu lý thuyết tổ chức truyền thống cũng tin rằng có thể xác định được cấu trúc tối ưu cho tất cả các tổ chức (Fayol, 1949; Taylor, 1911; Weber, 1946). Tuy nhiên, trong thực tế không có một cơ cấu nào là tốt nhất cho một tổ chức. Hiệu suất của một tổ chức phụ thuộc vào sự phù hợp với cơ cấu tổ chức của nó và các biến theo ngữ cảnh như môi trường, chiến lược, công nghệ, quy mô, văn hóa (Chenhall 2007). Các lý thuyết phù hợp giữa cơ cấu tổ chức và các biến theo ngữ cảnh được gọi chung là lý thuyết dự phòng.
Theo lý thuyết dự phòng, KTQT được coi là thành phần của cơ cấu tổ chức. Việc thông qua lý thuyết dự phòng để nghiên cứu KTQT là quá trình điều chỉnh sự phù hợp giữa KTQT cụ thể với các biến theo ngữ cảnh trong một DN.
Các biến như môi trường bên ngoài, công nghệ, cơ cấu tổ chức và quy mô (Otley 1980; Waterhouse và Tiessen 1978) đã được nghiên cứu bởi các nhà nghiên cứu kế toán quản trị trong hơn 25 năm. Trong hai thập niên cuối của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu KTQT thay đổi tập trung các biến như văn hóa (Harrison và McKinnon 1999) và chiến lược (Langfield- Smith 2006).
Bên cạnh đó công nghệ là một biến ảnh hưởng lớn đến nghiên cứu KTQT. Những thay đổi về công nghệ được sử dụng bởi các tổ chức thường dẫn đến những thay đổi trong các yêu cầu của tổ chức về KTQT. Ví dụ, tổ chức có sử dụng công nghệ sản xuất hàng loạt trong sản xuất, quá trình sản xuất yêu cầu hệ thống ngân sách hỗ trợ quản lý các hoạt động thường xuyên hàng ngày (Chenhall 2007).
Ngược lại, các tổ chức áp dụng công nghệ sản xuất đơn vị phức tạp như DN thủy sản yêu cầu sự kiểm soát và điều khiển linh hoạt cần khuyến khích các nhân viên phản ứng nhanh với các tình huống khác nhau (Woodward 1965). Với việc giới thiệu các sáng kiến quản lý hiện đại như Just-in time (JIT) và quản lý chất lượng toàn diện (TQM), DN thủy sản cần phương tiện hiệu quả để đo lường kết quả của các sáng kiến chiến lược của các nhà quản trị. Quản lý hệ thống kiểm soát liên kết chiến lược và hoạt động giống như thẻ điểm cân bằng phù hợp với nhu cầu của quản trị.
Cadez và Guilding (2008) đề xuất 4 yếu tố có ý nghĩa quan trọng đối với thiết kế hệ thống KTQTCL gồm: Chiến lược kinh doanh, mức độ mà chiến lược đã áp dụng được xây dựng có chủ đích; định hướng thị trường, quy mô DN. Aver và Cadez (2009) đề xuất một quan điểm xã hội học của lý thuyết dự phòng và cho rằng, sự phát triển xã hội học liên quan đến sự tham gia của kế toán viên trong quá trình ra quyết định chiến lược. Merchant (1985) khám phá các mối quan hệ ngẫu nhiên giữa quy mô của công ty, sự đa dạng của sản phẩm, mức độ phân cấp và việc sử dụng thông tin ngân sách.
Như vậy, không thể xây dựng một hệ thống SMA khuôn mẫu áp dụng cho tất cả các DN kinh doanh dịch vụ mà việc vận dụng SMA vào DN phải tùy thuộc vào đặc thù từng DN, đồng thời phải phù hợp với cơ cấu tổ chức vì mỗi DN có quy mô DN, trình độ công nghệ và chiến lược tổ chức trong từng giai đoạn là khác nhau. Điều này có nghĩa là việc xây dựng một hệ thống SMA hiệu quả phải thích hợp với từng DN, với môi trường bên trong và bên ngoài mà DN đó đang hoạt động.
Kết luận
Trong những năm gần đây, SMA là một trong những vấn đề được các DN chú trọng, xét về góc độ nghiên cứu lý luận và nghiên cứu ứng dụng thực tiễn tại các DN. Việc vận dụng lý thuyết dự phòng trong nghiên cứu giúp khám phá các nhân tố tác động đến KTQTCL trong DN cụ thể là các DN thủy sản Việt Nam. Từ những nền tảng này, DN có thể đưa ra giải pháp điều chỉnh các biến ngữ cảnh nhằm xây dựng hệ thống thông tin KTQT hiệu quả. Trong đó, cải thiện chức năng cung cấp thông tin ngày càng chất lượng và hữu ích hơn, phục vụ cho việc thực hiện chiến lược dài hạn của DN.
Tài liệu tham khảo:
- Nguyễn Đình Thọ, Nguyễn Thị Mai Trang (2008), Nghiên cứu khoa học trong kinh doanh, NXB Thống kê;
- Tiêu Thị Thanh Hoa (2021), Vận dụng lý thuyết dự phòng trong kế toán quản trị chiến lược tại các doanh nghiệp, Tạp chí Tài chính, tháng 10/2021;
- Bromwich, M. (1990), “The Case for Strategic Management Accounting: The Role of Accounting information for Strategy in Competitive Markets”, Accounting Organizations and Society, Vol. 15 No.1/2, pp. 27-46;
- Cadez, S. And Guilding, C. (2008), “An Exploratory investigation of An Integrated Contingency Model of Strategic Management Accounting”, Accounting, Organizations and Society, 28 (2-3); 127-168;
- https://tapchitaichinh.vn/anh-huong-cua-ly-thuyet-du-phong-den-viec-van-dung-ke-toan-quan-tri-chi-phi-moi-truong-trong-cac-doanh-nghiep.html