Vốn tín dụng ngân hàng chiếm một nửa tổng lượng vốn cung cho nền kinh tế


Vốn tín dụng ngân hàng đang chiếm một nửa trong tổng lượng vốn cung cho nền kinh tế, trong khi huy động vốn qua kênh cổ phiếu cực kỳ nhỏ; mỗi năm chỉ được khoảng 120.000 tỷ đồng, bằng một ngân hàng trung bình huy động vốn…

Vốn tín dụng ngân hàng đang chiếm một nửa trong tổng lượng vốn cung cho nền kinh tế.
Vốn tín dụng ngân hàng đang chiếm một nửa trong tổng lượng vốn cung cho nền kinh tế.

Đó là nhận định của TS. Cấn Văn Lực - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia tại hội thảo “Phát huy và nâng cao hiệu quả các nguồn lực tài chính phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh mới” do Tạp chí Kinh tế Việt Nam phối hợp với Vụ Kinh tế tổng hợp (Ban Kinh tế Trung ương) đồng tổ chức.

TS. Cấn Văn Lực cho biết, trong 5 năm vừa qua, tất cả các quốc gia trên thế giới đều tăng cường “bơm” tiền giúp nền kinh tế chống chịu và phục hồi sau hàng loạt cú sốc như đại dịch, chiến tranh, xung đột chính trị leo thang.

Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế, trong giai đoạn 2020 - 2021, các biện pháp hỗ trợ tài khóa (cho y tế và các lĩnh vực khác) tương đương 10,2% GDP toàn cầu năm 2020, chiếm 62,2% tổng các gói hỗ trợ; các biện pháp hỗ trợ tiền tệ và giải pháp khác (bơm vốn, cho vay ưu đãi, bảo lãnh, mua tài sản...) tương đương 6,2% GDP toàn cầu năm 2020 (chiếm 37,8% tổng các gói hỗ trợ).

Tại Việt Nam, trong giai đoạn 2020 - 2021, Quốc hội và Chính phủ đã thông qua các gói hỗ trợ tài khóa tương đương 1,8% GDP 2020 (chiếm 64,3%), biện pháp hỗ tiền tệ và khác 1% GDP 2020 (chiếm 35,7%).

Giai đoạn 2022-2024, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội 2022-2023 với tổng giá trị khoảng 342 nghìn tỷ đồng đã được thông qua.

“Nhờ vậy mà kinh tế phục hồi khá nhanh, sau 2 năm đỉnh dịch 2020-2021 tăng trưởng chậm, từ năm 2022 đến nay đã lấy lại được tốc độ tăng trưởng ổn định và thuộc top cao trong khu vực…”, vị chuyên gia nhấn mạnh.

Tuy nhiên, TS. Cấn Văn Lực cũng chỉ ra điểm yếu của nền kinh tế là chất lượng tăng trưởng chưa cao, còn phụ thuộc nhiều vào yếu tố vốn.

“Vai trò của vốn đối với tăng trưởng mặc dù giảm nhưng vẫn là yếu tố quan trọng nhất, đóng góp 50,6% trong năm 2023; trong khi đó đóng góp của TFP (Total factor Productivity, năng suất các nhân tố tổng hợp) là 44,7%”, TS. Cấn Văn Lực nói.

Theo vị chuyên gia, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế chậm dẫn đến phân bổ nguồn lực chưa hiệu quả; năng suất lao động còn thấp và chậm cải thiện (tốc độ tăng năng suất lao động 2019-2023 đạt khoảng 5,5%, thấp hơn mục tiêu 6,5% giai đoạn 2021- 2025)… là yếu tố chính kéo tụt chất lượng tăng trưởng.

Chỉ ra sự mất cân đối trong cơ cấu các nguồn vốn cho nền kinh tế, TS. Cấn Văn Lực cho hay, theo kết quả nghiên cứu của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV về tính tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2019 - 2024 dựa trên phân loại theo nguồn vốn đầu tư, tín dụng vẫn là kênh cấp vốn chính cho nền kinh tế, với tỷ lệ lên tới 53,54% trong 6 tháng đầu năm 2024; trong khi đó kênh cổ phiếu chỉ chiếm 0,75%; kênh trái phiếu doanh nghiệp 8%...

“Vốn tín dụng ngân hàng đang chiếm một nửa trong tổng lượng vốn cung cho nền kinh tế, trong khi huy động vốn qua kênh cổ phiếu cực kỳ nhỏ; mỗi năm chỉ được khoảng 120.000 tỷ đồng, bằng một ngân hàng trung bình huy động vốn… Như vậy, cần thúc đẩy hơn nữa vai trò huy động vốn của thị trường chứng khoán”, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia nói.

Theo TS. Cấn Văn Lực, trái phiếu doanh nghiệp là nguồn vốn trung - dài hạn quan trọng cho nền kinh tế, đạt khối lượng phát hành kỷ lục vào năm 2021 với hơn 740.000 tỷ đồng, cung ứng đến 23,49% nhu cầu vốn cho nền kinh tế nhưng từ năm 2022 đến 6 tháng đầu năm 2024 sụt giảm mạnh sau nhiều vụ sai phạm, chỉ còn đóng góp khoảng 8% tổng lượng vốn cho nền kinh tế.

Trong khi đó, đầu tư tư nhân liên tục sụt giảm từ năm 2020 đến nay, chỉ đóng góp khoảng 4-5% tổng lượng vốn cho nền kinh tế.

TS. Cấn Văn Lực khuyến nghị trong thời gian tới, các cơ quan chức năng cần đẩy mạnh công tác kiểm kê, thống kê các nguồn lực một cách bài bản, khoa học để có phương án quản lý, phân bổ và sử dụng tối ưu.

Trong đó, chú trọng việc xây dựng cơ sở dữ liệu, áp dụng các nguyên tắc thống kê theo thông lệ quốc tế các chỉ tiêu thống kê liên quan đến nguồn nhân lực, tài lực, vật lực.

Đồng thời, chú trọng công tác thống kê khu vực kinh tế chưa được quan sát và tăng cường hợp tác quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực này.

Theo M.Đ/thitruongtaichinhtiente.vn