Bước đi vững chắc để mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế
Việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế cần có bước đi vững chắc thông qua các cơ chế, chính sách khả thi, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, cơ cấu lao động, đổi mới về cơ chế tài chính y tế và đồng bộ với nhiều chính sách xã hội khác… Đó là một trong những giải pháp được Phó Tổng Giám đốc Bảo hiểm Xã hội Việt Nam Phạm Lương Sơn đưa ra mới đây khi nhìn nhận về quá trình thực hiện chính sách bảo hiểm y tế trong những năm qua.
Tỷ lệ người dân tham gia BHYT tăng cao
Theo Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Phạm Lương Sơn, chính sách bảo hiểm y tế (BHYT) luôn được Đảng, Nhà nước xác định là một trong những trụ cột quan trọng của chính sách an sinh xã hội và là nguồn tài chính bền vững giúp cho thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Theo đó, BHYT là cơ chế tài chính công dành cho chăm sóc sức khỏe. Quỹ BHYT được hình thành từ sự đóng góp tài chính dựa trên nền tảng sự chia sẻ nguy cơ giữa những người tham gia, có sự hỗ trợ của Nhà nước đối với nhóm ưu đãi xã hội và nhóm yếu thế; người tham gia BHYT được thụ hưởng quyền lợi theo nhu cầu về khám chữa bệnh (KCB).
Trong thời gian qua, với những nỗ lực của ngành Bảo hiểm xã hội (BHXH) và toàn hệ thống chính trị, tỷ lệ người dân tham gia BHYT tăng cao. Số người tham gia BHYT tăng từ 7,1 triệu người năm 1995 lên 10,4 triệu người vào năm 2000 (tăng 46% so với năm 1995); tăng lên 23,2 triệu người vào năm 2005 (tăng 123% so với năm 2000); tăng lên 52,4 triệu người vào năm 2010 (tăng 126% so với năm 2005); tăng lên 70 triệu người vào năm 2015 (tăng 34% so với năm 2010) và tăng lên 85,945 triệu người vào năm 2019 (tăng 22,8% so với năm 2015). So với năm 1995, tăng hơn 12 lần, bình quân mỗi năm tăng 48% (đến nay đã đạt tỷ lệ bao phủ 90% dân số).
Có được kết quả này là sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự tuyên truyền vận động có hiệu quả, chất lượng KCB BHYT, sự hài lòng của người bệnh ngày càng tăng, người dân đã tin tưởng vào chính sách BHYT...
Số lượt người được khám, chữa bệnh theo chế độ BHYT trong cả nước tăng nhanh qua từng năm. Năm 2009 có 92,1 triệu lượt người khám, chữa bệnh BHYT, đến năm 2019 số lượt người đi khám, chữa bệnh BHYT tăng gần gấp 2 lần với 186 triệu lượt người khám, chữa bệnh BHYT. Đến nay, đã có trên 1.500 triệu lượt người khám chữa bệnh BHYT, với tổng số tiền trên 475 nghìn tỷ đồng (bình quân mỗi năm tăng 33,1%)...
Cùng với việc mở rộng số lượng người tham gia BHYT, cơ quan BHXH và ngành Y tế đã phối hợp, tập trung nâng cao chất lượng KCB BHYT với hàng loạt biện pháp đổi mới, cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho người bệnh như: Lấy người bệnh làm trung tâm; đổi mới về quản lý, cách làm và phương pháp kiểm tra, đánh giá bệnh viện hàng năm; triển khai các đề án giảm tải, bác sĩ gia đình. Đặc biệt, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý bệnh viện, quản lý BHYT để giảm thủ tục, giảm thời gian chờ đợi của người bệnh, thực hiện công khai, minh bạch các khoản chi phí mà người bệnh phải chi trả.
Người tham gia BHYT ngày càng có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận dịch vụ y tế. Số lượt người được khám, chữa bệnh theo chế độ BHYT tăng nhanh qua từng năm. Năm 2009 có 92,1 triệu lượt người khám, chữa bệnh BHYT, đến năm 2019 số lượt người đi khám, chữa bệnh BHYT tăng gần gấp 2 lần với 186 triệu lượt người khám, chữa bệnh BHYT. Đến nay, đã có trên 1.500 triệu lượt người KCB BHYT, với tổng số tiền trên 475 nghìn tỷ đồng (bình quân mỗi năm tăng 33,1%)...
Số chi khám bệnh, chữa bệnh từ Quỹ BHYT cũng ngày càng tăng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi khám bệnh, chữa bệnh. Năm 2009, số chi KCB BHYT là 15,5 nghìn tỷ đồng, đến năm 2019 số chi khám bệnh, chữa bệnh từ Quỹ BHYT tăng lên hơn gấp 6 lần, với số tiền trên 100 nghìn tỷ đồng.
Đảm bảo sử dụng hiệu quả Quỹ BHYT
Để đạt được những kết quả đó nhiều giải pháp trong quản lý Quỹ BHYT đã được BHXH Việt Nam triển khai, thực hiện trong thời gian qua. Đó là, BHXH Việt Nam đã tích cực tham gia, phối hợp chặt chẽ với Bộ Y tế kịp thời ban hành, sửa đổi, bổ sung và triển khai các văn bản, quy định về thực hiện chế độ, chính sách BHYT phù hợp với từng thời kỳ, đặc biệt là việc ban hành các văn bản để triển khai thực hiện Luật BHYT, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT như: Thông tuyến huyện KCB BHYT; điều chỉnh, thống nhất giá dịch vụ KCB BHYT giữa các bệnh viện đồng hạng trên toàn quốc; xây dựng và hướng dẫn thực hiện gói dịch vụ y tế cơ bản do Quỹ BHYT chi trả; danh mục, tỷ lệ điều kiện thanh toán thuốc, vật tư y tế...
Để tăng cường hiệu quả sử dụng Quỹ BHYT, hạn chế, ngăn chặn tình trạng trục lợi, lạm dụng BHYT, từ năm 2017, BHXH Việt Nam đã triển khai phương pháp giám định BHYT dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin, đưa vào vận hành Hệ thống thông tin giám định BHYT bao gồm hệ thống giám định, giám sát điện tử, kết nối dữ liệu liên thông với các cơ sở KCB BHYT từ tuyến xã đến Trung ương trên phạm vi toàn quốc để thực hiện quản lý chi phí KCB BHYT. Hệ thống thông tin giám định BHYT thường xuyên cập nhật, phát triển các quy tắc giám định; minh bạch các thông tin; phát hiện kịp thời những chi phí KCB BHYT gia tăng bất thường để ngăn ngừa trục lợi; phân tích tình hình chi KCB BHYT, thường xuyên cảnh báo để các cơ sở y tế chủ động kiểm soát, điều chỉnh hợp lý, qua đó đã giảm chi hàng nghìn tỷ đồng, góp phần đảm bảo sử dụng hiệu quả quỹ.
Công tác quản lý sử dụng, thanh toán chi phí thuốc, vật tư y tế cũng được thực hiện ngày càng hiệu quả; BHXH Việt Nam tích cực tham gia, phối hợp với ngành Y tế trong việc đấu thầu mua sắm thuốc sử dụng trong KCB BHYT; trực tiếp tham gia Tổ thẩm định kế hoạch lựa chọn nhà thầu tại các bệnh viện Trung ương thuộc Bộ Y tế và các bệnh viện trực thuộc bộ, ngành; Tổ chuyên gia đánh giá hồ sơ dự thầu tại Trung tâm Mua sắm quốc gia (Bộ Y tế); chỉ đạo, hướng dẫn BHXH các tỉnh, thành phố tham gia vào các Hội đồng đấu thầu mua sắm thuốc tại địa phương...
Giải pháp để mở rộng đối tượng tham gia BHYT
Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Phạm Lương Sơn nhận định, để mở rộng đối tượng tham gia BHYT trong thời gian tới cần có bước đi vững chắc thông qua các cơ chế, chính sách khả thi, phù hợp với điều kiện phát triển, quá trình chuyển đổi kinh tế xã hội, cơ cấu lao động, đổi mới về cơ chế tài chính y tế và đồng bộ với nhiều chính sách xã hội khác. Khi xác định lộ trình mở rộng các nhóm đối tượng tham gia BHYT phải tính đến việc đáp ứng nhu cầu KCB của người có thẻ BHYT. Đó là sự chuyển đổi của cơ chế tài chính cho chăm sóc sức khỏe, trong đó có việc chuyển ngân sách chi y tế sang cho hỗ trợ tham gia BHYT và sự đáp ứng của hệ thống cơ sở y tế.
Đến thời điểm này, khi tỷ lệ dân số đã đạt tới mức 90% dân số tham gia BHYT và mục tiêu 95% đến năm 2025 là hoàn toàn khả thi, cùng với sự phát triển nền kinh tế, chính sách BHYT không chỉ gia tăng và duy trì tỷ lệ tham gia BHYT cao (bao phủ về lượng) mà còn cần chuyển trọng tâm sang bảo đảm bao phủ về phạm vi dịch vụ được thụ hưởng và mức độ bảo vệ về tài chính - những yếu tố được xem là bao phủ về chất.
Chỉ ra một số thách thức, khó khăn trong quá trình phát triển đối tượng tham gia BHYT, ông Phạm Lương Sơn cho rằng, tỷ lệ tham gia BHYT cao nhưng thiếu bền vững; diễn biến về bệnh tật ngày càng phức tạp, đặc biệt trong bối cảnh gia tăng bệnh mãn tính không lây có chi phí điều trị chăm sóc cao và vấn đề già hóa dân số đang diễn ra nhanh chóng; Tỷ lệ chi của hộ gia đình cho chi tiêu y tế còn cao so với kỳ vọng; Chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân và còn khác biệt giữa các tuyến trong hệ thống các cơ sở KCB…
Để khắc phục những khó khăn, thách thức trên, theo Lãnh đạo BHXH Việt Nam, thời gian tới, ngành BHXH xác định thực hiện đồng bộ và toàn diện các giải pháp, trong đó tập trung vào một số nội dung như:
Tiếp tục phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu nêu tại Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị, cũng như thực hiện có hiệu quả Luật BHYT và những văn bản pháp luật có liên quan. Đẩy mạnh việc phát triển đối tượng tham gia, nhất là người tham gia BHYT hộ gia đình; giải quyết đầy đủ, kịp thời các quyền lợi về BHYT cho người tham gia; phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, kế hoạch được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao.
Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành ở Trung ương; các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội thực hiện tốt các chế độ, chính sách BHYT; tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về BHYT.
Tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền cả về nội dung và hình thức theo hướng chuyên nghiệp đúng trọng tâm, trọng điểm; phù hợp với từng nhóm đối tượng, trong đó tập trung vào nhóm đối tượng là người tham gia BHYT theo hộ gia đình.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHYT; kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm chế độ, chính sách về BHYT; các hành vi gian lận, trục lợi Quỹ BHYT.