Có nên tăng quyền cho cổ đông?
Đề xuất giảm tỷ lệ cổ phần có quyền tiếp cận thông tin nội bộ từ 10% xuống 1% khiến doanh nghiệp lo “lộ bí mật”, trong khi các chuyên gia lại cho rằng cổ đông được quyền tiếp cận thông tin sẽ nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp.
Tại Hội thảo “Góp ý dự luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) ngày 15/10, ông Vũ Đại Thắng, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), cho biết môi trường đầu tư của Việt Nam đã có những chuyển biến thuận lợi, số lượng doanh nghiệp (DN) thành lập mới trong 3 năm gần đây tăng khoảng 65-70%, đạt mức cao nhất 20 năm qua.
Đến nay, cả nước có khoảng 750.000 DN đang hoạt động. Thu hút đầu tư nước ngoài cũng đạt được kết quả đáng khích lệ, giai đoạn 2016-2018, số lượng dự án đăng ký và vốn đầu tư giải ngân tăng nhanh. Riêng năm 2018, vốn giải ngân đạt gần 20 tỷ USD.
Lo ngại lộ bí mật kinh doanh
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư và Luật DN đề xuất sửa đổi khoản 2, điều 114 Luật DN theo hướng giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% xuống 1%.
Cùng với đó là quy định cổ đông sẽ có quyền yêu cầu xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của Hội đồng quản trị, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của Ban kiểm soát; yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông bất thường; yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết…
Đồng thời, Dự thảo Luật cũng bãi bỏ điều kiện sở hữu cổ phần trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng.
Đề xuất này đã làm “nóng” hội thảo khi có nhiều quan điểm trái chiều giữa các chuyên gia và DN.
Chia sẻ quan điểm, ông Phan Lê Hoàng, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Thái Bình Dương (Pacific Corpration), cho rằng việc bỏ điều kiện sở hữu cổ phần trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng là phù hợp, vì đã là cổ đông của công ty thì đương nhiên cổ đông phải được thực hiện ngay các quyền của mình mà không phân biệt cổ đông cũ hay cổ đông mới.
Tuy nhiên, ông Hoàng lại khẳng định quy định về giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% xuống còn 1% là không phù hợp, không đảm bảo được môi trường cạnh tranh cho DN.
Theo ông Hoàng, bảo vệ quyền lợi cho cổ đông nhỏ là việc làm đúng, nhưng để ổn định công ty thì vẫn cần phải có một tỷ lệ nhất định để biểu quyết theo số đông, đảm bảo cho quyền lợi cũng như trách nhiệm cổ đông lớn.
Vì thế, đại diện Pacific Corpration đề nghị giữ nguyên tỷ lệ sở hữu 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên của cổ đông hoặc nhóm cổ đông như quy định tại Khoản 2 Điều 114 Luật DN hiện hành.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Thanh Việt, Tổng giám đốc Intracom, bày tỏ sự lo ngại về vấn đề bảo vệ bí mật kinh doanh.
“Trong quản trị DN, việc quản lý chuyên nghiệp và bảo vệ bí mật kinh doanh rất quan trọng. Nếu không suy nghĩ cẩn thận thì đối thủ cạnh tranh sẽ mua 1% và gây khó dễ cho DN”, ông Việt nêu rõ.
Không ai mạo hiểm để quấy phá DN
Dưới góc nhìn của các chuyên gia, đa số ủng hộ đề xuất này và cho rằng quy định như vậy sẽ bắt buộc các DN phải nâng cao chất lượng quản trị DN, đạt chuẩn mực của OECD hay Basel, bởi nếu không thì sẽ khó thu hút được nhà đầu tư.
Theo ông Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), quản trị công ty là một trong những nội dung cần đặc biệt chú ý trong lần sửa đổi Luật này. Trong đó, bảo vệ cổ đông là một nội dung quan trọng nhất của khung pháp luật về quản trị công ty. Quy định về bảo vệ cổ đông tốt sẽ đóng góp quan trọng làm cho DN trở thành một công cụ kinh doanh an toàn và thông qua đó sẽ thúc đẩy và huy động vốn đầu tư.
Do đó, ông Hiếu cho rằng việc sửa đổi như vậy sẽ giúp mở rộng quyền tiếp cận thông tin của cổ đông về tình hình hoạt động của công ty, tạo thuận lợi hơn cho cổ đông thực hiện quyền của mình.
“Ở Nhật Bản, chỉ cần 1 cổ phiếu là có quyền yêu cầu cung cấp thông tin DN, ở Hàn Quốc áp dụng tỷ lệ 3%. Do đó, chúng tôi thấy mức 1% là hợp lý. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát với hơn 300 DN trên sàn HoSE và kết luận rằng 1% cổ phần của một DN niêm yết là rất lớn, không ai chịu mạo hiểm quyền lợi của mình liên quan đến 1% cổ phần để quấy phá DN cả”, ông Hiếu nêu rõ.
Đồng quan điểm, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho hay: quản trị công ty ở các nước rất đề cao quyền cổ đông. Xu hướng các nước là làm sao để người dân bỏ vào ít vốn nhưng cũng được bảo đảm quyền lợi.
Việc giảm tỷ lệ nắm giữ cổ phần là bao nhiêu: 1%, 2% hay 3% thì còn phải xem xét kỷ. Tuy nhiên, theo ông Tuấn, tỷ lệ 1% là hợp lý, vì 1% là một tỷ lệ không hề nhỏ đối với một nhà đầu tư, nên bản thân họ phải hành động dựa trên lợi ích của 1% đó.
Đại diện cho các nhà đầu tư nước ngoài (VAFIE), GS.,TSKH, Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội DN đầu tư nước ngoài, lưu ý cần có các biện pháp bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, bởi đây là yếu tố quan trọng trong việc thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài.
“Điều khoản về bảo đảm đầu tư khi có sự thay đổi của pháp luật đã được quy định tại Điều 13 của Luật Đầu tư. Tuy nhiên, quy định này mới chỉ dừng lại ở sự thay đổi văn bản pháp luật về ưu đãi đầu tư; trong khi nhà đầu tư đòi hỏi nhiều hơn thế, bao gồm: bảo đảm quyền sở hữu tài sản, bảo đảm chuyển tài sản và lợi nhuận hợp pháp của nhà đầu tư ra nước ngoài, bảo đảm đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật, bảo đảm đầu tư đối với hoạt động đầu tư kinh doanh”, ông Mại nói.
Chủ tịch VAFIE cũng nhấn mạnh cần có một chương trình “Bảo đảm đầu tư” để quy định đầy đủ các nội dung có liên quan đến quyền lợi nhà đầu tư, gồm bảo đảm quyền sở hữu tài sản; bảo đảm chuyển tài sản, lợi nhuận hợp pháp của nhà đầu tư ra nước ngoài; bảo đảm đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật và bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư kinh doanh.