Đẩy mạnh chính sách an sinh xã hội bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững đất nước
Ngày 23/5/2018, Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội với nhiều điểm mới, mang tính đột phá nhằm đẩy mạnh thực hiện mục tiêu an sinh xã hội, tạo động lực để phát triển bền vững đất nước.
Trong bối cảnh hiện nay, cần đẩy mạnh việc cải cách, tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội phù hợp với thực tiễn đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng…
Thực hiện an sinh xã hội – Bước chuyển lớn từ chính sách và thực tiễn
Vấn đề an sinh xã hội (ASXH) luôn được Đảng ta quan tâm sâu sắc và không ngừng hoàn thiện, đổi mới cơ chế chính sách cho phù hợp với sự phát triển của đất nước trong từng thời kỳ; điều này thể hiện rất rõ tại các văn kiện qua các kỳ Đại hội của Đảng và với từng chủ trương, chính sách cụ thể của Nhà nước.
Điển hình như: Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020” khẳng định: Tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người có công, bảo đảm gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn.
Ðến năm 2020, cơ bản bảo đảm ASXH toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin, truyền thông, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân”. Nghị quyết số 21/NQ-TW ngày 22/11/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) giai đoạn 2012-2020” đã đề ra mục tiêu “phấn đấu đến năm 2020, có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia BHXH, 35% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN)”.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng (2016) tiếp tục khẳng định: Bảo đảm ASXH là một trong các nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ mới; tiếp tục hoàn thiện chính sách ASXH phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội; mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống ASXH tới mọi người dân, hướng tới mục tiêu thực hiện ASXH toàn dân; khuyến khích nâng cao khả năng tự bảo đảm ASXH của mỗi người dân...
Đặc biệt, Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH cho thấy, sự quan tâm đặc biệt của Đảng đối với chính sách BHXH. Nghị quyết số 28-NQ/TW đã kịp thời “tháo gỡ” những hạn chế và được coi là “luồng gió mới” khẳng định một bước chuyển biến quan trọng, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước trong việc đẩy mạnh thực hiện mục tiêu ASXH, tạo động lực để phát triển bền vững đất nước.
Những kết quả quan trọng đạt được trong thực hiện chính sách ASXH thời gian qua ở nước ta, cụ thể:
Một là, chính sách BHXH đã được thể chế hóa theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Theo đó, đã hình thành hệ thống chính sách BHXH khá đồng bộ, bao quát hầu hết các chế độ BHXH theo thông lệ quốc tế, gồm cả loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện; đối với cả người có quan hệ lao động và người không có quan hệ lao động; đối với cả khu vực kinh tế chính thức và phi chính thức. Hệ thống chính sách BHXH, các quan hệ BHXH được thiết kế, điều chỉnh và vận hành ngày càng phù hợp hơn.
Với vai trò chủ đạo của Nhà nước, sự tham gia của người lao động và người sử dụng lao động, Quỹ BHXH đã trở thành quỹ an sinh lớn nhất, hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa những người lao động cùng thế hệ và giữa các thế hệ tham gia BHXH. Tổng số tiền chi cho các chế độ hưu trí, tử tuất, mất sức lao động và trợ cấp hàng tháng khác năm 2017 từ Quỹ BHXH là 132.140 tỷ đồng, tăng hơn 9 lần so với thời điểm ngày 1/1/2007, là năm đầu tiên thực hiện Luật BHXH. Tổng số chi hưu trí, tử tuất năm 2017 từ nguồn ngân sách nhà nước là 44.875 tỷ đồng (chỉ còn 25,35% so với tỷ lệ 56,2% tại thời điểm ngày 1/1/2007).
Hai là, mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia hệ thống chính sách BHXH, BHTN để chủ động đối phó khi thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất do các rủi ro, ốm đau, tai nạn lao động, tuổi già... Hệ thống ASXH đã có tác động tích cực, góp phần giảm thiểu rủi ro cho con người, khi bản thân không tự khắc phục được, như thất nghiệp, thiếu việc làm, thu nhập thấp, người già, người tàn tật, trẻ mồ côi, người nghèo nhằm thúc đẩy tiến bộ xã hội...
Thống kê cho thấy, tính đến năm 2017, tổng số người tham gia BHXH là 13,9 triệu người (trong đó: BHXH bắt buộc là 13,6 triệu người, BHXH tự nguyện là 0,3 triệu người), tăng hơn 2,3 lần so với thời điểm Luật BHXH số 71/2006/QH11 có hiệu lực (ngày 1/1/2007); số người tham gia BHTN là 11,7 triệu người; thực hiện cho trên 3 triệu người hưởng chế độ hưu trí, BHXH hàng tháng.
Ba là, hỗ trợ thường xuyên đối với người có hoàn cảnh đặc thù và hỗ trợ đột xuất cho người dân khi gặp các rủi ro không lường trước hoặc vượt quá khả năng kiểm soát (mất mùa, thiên tai, đói nghèo...) thông qua các khoản tiền mặt hoặc hiện vật từ ngân sách nhà nước. Nếu năm 2012, tổng chi cho hoạt động ASXH bằng 5,88% GDP thì đến năm 2015, con số này đã tăng lên khoảng 6,6% GDP.
Công tác ASXH đạt được nhiều kết quả quan trọng đã góp phần vào thành tích chung của phát triển kinh tế - xã hội. Nổi bật nhất là việc chăm sóc và thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, giải quyết tồn đọng hồ sơ; giảm tỷ lệ hộ nghèo; tăng tỷ lệ tham gia BHYT; công tác cứu trợ thiên tai, lũ lụt...
Bốn là, tăng khả năng tiếp cận của người dân đối với các dịch vụ xã hội cơ bản: Giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường, thông tin. Đa số người lao động đã tiếp cận được y tế cơ sở, tỷ lệ tham gia BHYT tăng nhanh qua các năm. Trong thời gian qua, nhiều chính sách ASXH được ban hành, các chương trình xóa đói, giảm nghèo cho người dân miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số của Việt Nam đã thu được những kết quả đáng ghi nhận, được dư luận quốc tế thừa nhận và đánh giá cao. Việt Nam đã đạt và vượt chỉ tiêu thời gian hoàn thành Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về giảm nghèo của Liên Hợp quốc.
Bên cạnh những kết quả đạt được, lĩnh vực xã hội ở nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, một số mặt yếu kém còn kéo dài, chậm được khắc phục như: Tỷ lệ bao phủ và chất lượng dịch vụ BHXH, BHTN còn thấp, Quỹ BHXH chưa bền vững. Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân nhiều mặt còn hạn chế. Chênh lệch về chỉ số với mức trung bình của cả nước còn lớn...
Thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW với mục tiêu hướng tới BHXH toàn dân, đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho các bộ, ngành, các cấp ủy đảng, chính quyền trong việc tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật BHXH, cơ chế tổ chức thực hiện BHXH phù hợp với thực tiễn đất nước trong bối cảnh phát triển và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, trước những thách thức trong dịch chuyển lao động, thay đổi cơ cấu ngành - nghề trong cuộc cách mạng 4.0…
Nguyên nhân của những hạn chế trên bắt nguồn trước hết từ việc nhận thức về vai trò của ASXH chưa cao, chưa thống nhất, thậm chí coi ASXH đơn thuần là sự cứu trợ, trợ giúp, ưu đãi khiến cho việc huy động nguồn lực cũng như việc xây dựng và vận hành hệ thống ASXH còn thiếu và kém hiệu quả. Mức độ bao phủ còn thấp, đối tượng còn hẹp, hệ thống ASXH còn bất bình đẳng.
Nguồn đầu tư cũng như quản lý, giám sát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống ASXH chưa đáp ứng yêu cầu và hiệu quả chưa cao. Hạn chế trong việc thực hiện kém hiệu quả chính sách, chế độ BHXH đã làm cản trở tiến bộ và công bằng xã hội. Công tác xóa đói, giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo cao, chính sách trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội còn nhiều hạn chế. Hiện tượng bất bình đẳng về thu nhập và mức sống giữa các vùng, các tầng lớp dân cư còn lớn và có xu hướng gia tăng...
Một số giải pháp cần tập trung thực hiện
Để đẩy mạnh việc thực hiện chính sách ASXH, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, đưa Nghị quyết số 28-NQ/TW vào cuộc sống, mang lại hiệu quả thiết thực cho nhân dân và toàn xã hội, cần quan tâm thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội mà đất nước đang xây dựng. Việc xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về tiến bộ và công bằng xã hội phải tập trung đáp ứng: Khuyến khích làm giàu chính đáng và được cụ thể hóa một cách thống nhất, đồng bộ trong thể chế, ổn định áp dụng đến khi hình thành tập quán, truyền thống xã hội.
Khuyến khích làm giàu chính đáng phải đi đôi với xử lý nghiêm minh đối với các hành vi trục lợi bất chính, tham nhũng, buôn lậu, cấu kết, móc ngoặc hoặc trục lợi từ các ngoại ứng tiêu cực như gây ô nhiễm, phá hủy môi trường; Bộ phận người nghèo, thất học phải được chăm sóc, bảo vệ với ý nghĩa nuôi dưỡng và duy trì thỏa đáng phần nhân lực hữu dụng của xã hội; đồng thời, ngăn ngừa các tệ nạn và gánh nặng của xã hội trong tương lai.
Các chính sách xã hội cho người nghèo không thuần túy mang ý nghĩa nhân đạo, mà phải thực sự mang ý nghĩa chính trị và kinh tế quốc gia; Phải ngăn ngừa, uốn nắn các xu hướng tự phát, khắc phục những “lực đẩy vô hình”, đưa xã hội phát triển đúng quỹ đạo, bảo đảm tính pháp quyền, tính tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội, trong quản lý, phát triển xã hội.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp theo hướng tinh gọn, giảm chồng chéo. Ưu tiên hoàn thiện chính sách đối với người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng nghèo, đặc biệt khó khăn, tránh cào bằng, hỗ trợ theo nhu cầu và tạo động lực phấn đấu cho đối tượng thụ hưởng, khuyến khích người dân chủ động, tích cực tự an sinh. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng cư dân, DN vào quá trình hoạch định chính sách.
Ba là, về huy động nguồn lực, ưu tiên ngân sách trung ương để thực hiện đầy đủ và kịp thời các chính sách hỗ trợ cho các nhóm đối tượng yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, dân tộc rất ít người và các vùng khó khăn nhất. Tăng cường xã hội hóa, tiếp tục huy động nguồn lực trong nhân dân, khuyến khích cộng đồng DN tham gia tích cực vào công tác ASXH, bảo trợ các đối tượng yếu thế. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tranh thủ hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, cộng đồng, DN, cá nhân ở nước ngoài.
Bốn là, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, các bộ, ngành và địa phương ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn việc tổ chức thực hiện chính sách. Thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, đơn giản hóa các thủ tục, niêm yết công khai và hướng dẫn cụ thể cho người dân. Xã hội hóa hoạt động cung cấp dịch vụ công, tách bạch chức năng quản lý đối tượng với chức năng chi trả. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và thực hiện các quy trình nghiệp vụ; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về người có công và ASXH và bộ chỉ số ASXH.
Năm là, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách đối với người có công và bảo đảm ASXH; đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và tăng cường phản biện xã hội. Hoàn thiện hệ thống theo dõi giám sát cho từng lĩnh vực, thực hiện nghiêm túc hoạt động báo cáo định kỳ, cập nhật liên tục và chính xác số liệu qua các cấp quản lý; không phê duyệt, cấp kinh phí khi không báo cáo đầy đủ, chính xác và kịp thời.
Sáu là, tăng cường thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân, vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, DN và các tổ chức chính trị - xã hội. Cập nhật thông tin về chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật qua các kênh khác nhau với nhiều hình thức khác nhau. Chú trọng phổ biến giới thiệu các mô hình quản lý, các mô hình cung cấp dịch vụ hiệu quả, các gương “người tốt, việc tốt”, các mô hình giảm nghèo và ASXH... khuyến khích các đối tượng yếu thế tự vươn lên bảo đảm an sinh, khắc phục tính ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước.
Tài liệu tham khảo:
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
- Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (2018), Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 về cải cách chính sách BHXH;
- Chính phủ (2018), Nghị quyết số 125/NQ-CP ngày 8/10/2018 ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII;
- Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 - 2020;
- Báo cáo của BHXH Việt Nam về kết quả 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW.