Giải đáp thắc mắc liên quan đến Thuế thu nhập cá nhân
(Tài chính) Các nghị định và thông tư hướng dẫn cách tính và nộp thuế Thu nhập cá nhân (TNCN) đã được Bộ Tài chính ban hành và tập huấn, phổ biến đến các đối tượng doanh nghiệp và người dân, tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề mà người trực tiếp tham gia tính thuế chưa nắm rõ. FinancePlus.vn chuyển một số câu hỏi bạn đọc thắc mắc đến các chuyên gia thuế để được giải thích rõ ràng, và để bạn đọc gần xa quan tâm cũng có thể nắm hiểu rõ hơn.
Căn cứ quy định nêu trên anh/chị được tạm tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc kể từ khi đăng ký và khi quyết toán thuế anh/chị được tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc kể từ tháng phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Câu 2: Bạn đọc tại hòm thư acuongnp@gmail.com có thắc mắc như sau: “Chào Ban biên tập. Em đang là công nhân thời vụ cho 1 công ty liên doanh. Mỗi tháng em chỉ có thu nhập là 2.000.000đồng. Công ty yêu cầu em phải đóng thuế TNCN hàng tháng là 10% tương đương là 200.000đồng. Em xin hỏi ban biên tập, điều đó có đúng với bộ luât lao động hiện hành hay không?”.
Điểm i Khoản 1 Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế TNCN quy định:Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động (theo hướng dẫn tại Điểm c, d, khoản 2, Điều 2 Thông tư này) hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân.
Trường hợp cá nhân chỉ có duy nhất thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế theo tỷ lệ nêu trên nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế của cá nhân sau khi trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế thì cá nhân có thu nhập làm cam kết (theo mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) gửi tổ chức trả thu nhập để tổ chức trả thu nhập làm căn cứ tạm thời chưa khấu trừ thuế TNCN.
Căn cứ vào cam kết của người nhận thu nhập, tổ chức trả thu nhập không khấu trừ thuế. Kết thúc năm tính thuế, tổ chức trả thu nhập vẫn phải tổng hợp danh sách và thu nhập của những cá nhân chưa đến mức khấu trừ thuế (vào mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) và nộp cho cơ quan thuế. Cá nhân làm cam kết phải chịu trách nhiệm về bản cam kết của mình, trường hợp phát hiện có sự gian lận sẽ bị xử lý theo quy định của Luật Quản lý thuế.
Cá nhân làm cam kết theo hướng dẫn tại điểm này phải đăng ký thuế và có mã số thuế tại thời điểm cam kết.
Câu 3: Trường hợp một số người lao động tại thời điểm cuối năm 2013 và thời điểm quyết toán thuế đã có hợp đồng lao động trên 3 tháng, hàng tháng được khấu trừ thuế TNCN theo biểu thuế lũy tiến. Tuy nhiên, 2 tháng đầu năm 2013, người lao động này thực hiện công việc theo hình thức hợp đồng cộng tác viên (công việc khoán 1 lần, không phải là thử việc) và được khấu trừ thuế TNCN 10%. Như vậy, khi quyết toán thuế TNCN người lao động này phải quyết toán thuế như thế nào? Tính tổng cộng 2 loại thu nhập trên và áp dụng biểu thuế lũy tiến hay tách riêng 2 loại thu nhập (tiền lương tiền công theo biểu lũy tiến và thu nhập cộng tác viên 10%).
Trước hết, theo khoản 1.1, Điều 1, Mục II, công văn số 336/TCT- TNCN ngày 24 tháng 01 năm 2014 thì cá nhân chỉ có thu nhập từ tiền lương, tiền công ký hợp đồng lao động từ 03 tháng trở lên tại một tổ chức trả thu nhập và thực tế đang làm việc tại đó vào thời điểm uỷ quyền quyết toán thuế, kể cả trường hợp không làm việc đủ 12 tháng trong năm thuộc trường hợp ủy quyền quyết toán thuế (công ty nơi trả thu nhập sẽ quyết toán thuế TNCN thay cho người lao động).
Trong 2 tháng cộng tác viên thì công ty trả thu nhập có thể khấu trừ thuế 10% tại nguồn (do chưa biết chắc những lao động này có ký Hợp đồng Lao động với công ty hay không). Nhưng khi quyết toán, thì phải tính gộp đủ thu nhập 12 tháng năm 2013 và áp dụng khấu trừ thuế theo Biểu thuế lũy tiến từng phần.