Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giám sát hoạt động thương mại điện tử
Với tốc độ phát triển nhanh chóng, hoạt động thương mại điện tử ngày càng quen thuộc với phần đông người dân thế giới. Tại Việt Nam, hoạt động này đã có sự phát triển mạnh mẽ, dự báo đến năm 2020, có khoảng 30% dân số tham gia hoạt động thương mại điện tử. Song hành với những tiện ích mang lại, thực tiễn cũng đặt ra nhiều vấn đề trong công tác quản lý, kiểm soát giám sát hoạt động thương mại. Bài viết đánh giá thực trạng hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam hiện nay và gợi mở một số đề xuất nhằm phát huy những tiện ích của hoạt động này.
Lợi ích của thương mại điện tử
Thương mại điện tử (TMĐT) được đánh giá là bước tiến dài và nhanh của hoạt động kinh doanh hiện đại. Lợi ích lớn nhất mà TMĐT đem lại là tiết kiệm chi phí và tạo thuận lợi cho các bên giao dịch.
Với TMĐT, doanh nghiệp (DN) không phải tốn kém nhiều cho việc thuê của hàng với đông đảo nhân viên phục vụ, không cần đầu tư nhiều kho chứa hàng thay vào đó chỉ cần một khoản tiền nhỏ để xây đựng website bán hàng qua mạng sau đó chỉ tốn 10% phí để duy trì và vận hành website mỗi tháng là có được kênh bán hàng.
DN có thể tiếp thị sản phẩm, dịch vụ qua các trang điện tử ra toàn cầu với chi phí thấp. Đây là điều mà chỉ có TMĐT làm được cho DN. TMĐT cho phép mở rộng khả năng lựa chọn hàng hóa, dịch vụ người cung cấp. Với TMĐT khách hàng không còn giới hạn về địa lý hay thời gian làm việc, họ có thể mua hàng mọi lúc, mọi nơi. Lựa chọn giữa hàng trăm thậm chí hàng nghìn nhà cung cấp giữa các vùng miền khác nhau.
Bên cạnh đó, TMĐT tạo ra một phương thức kinh doanh và làm việc mới phù hợp với cuộc sống công nghiệp hiện đại. TMĐT tạo ra một sân chơi mới cho các DN buộc họ phải đổi mới, sáng tạo để đưa ra chiến lược kinh doanh và dịch vụ riêng cho sản phẩm dịch vụ từ đó góp phần phát triển cho các dang nghiệp nói riêng và nền kinh tế tổng thể nói chung...
Thực trạng và tiềm năng phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
Theo số liệu thống kê, hoạt động TMĐT Việt Nam năm 2017 đạt tốc độ tăng trưởng 25% so với năm 2016, dự báo năm 2018, mức tăng trưởng sẽ đạt khoảng 30%.
Thông tin từ Công ty cổ phần Thanh toán quốc gia Việt Nam (NAPAS) cho thấy, năm 2017 số lượng giao dịch trực tuyến thẻ nội địa tăng khoảng 50% so với 2016, trong khi giá trị giao dịch tăng tới 75%. Ở mảng tiếp thị trực tuyến, một số công ty có tốc độ tăng trưởng từ 100-200% trong năm 2017, đánh dấu sự tăng trưởng mạnh của nhóm DN cung cấp dịch vụ tiếp thị liên kết.
Trong lĩnh vực tiếp thị trực tuyến, một số công ty tiếp thị liên kết có tốc độ tăng trưởng năm 2017 đạt từ 100% đến 200%. Tính đến cuối năm 2016, quy mô thị trường TMĐT Việt Nam khoảng 4 tỷ USD. Dự báo trong 4 năm từ 2016 - 2020, quy mô thị trường TMĐT Việt Nam có thể đạt tới 10 tỷ USD.
Kết quả kháo sát, thống kê từ 1.000 DN TMĐT của Tập đoàn iPrice mới đây cho thấy, Việt Nam đang tham gia "cuộc chơi" TMĐT với “phong độ tốt”, nắm bắt hầu hết các xu thế của khu vực.
Tổng lượng truy cập mua sắm trực tuyến thông qua thiết bị di động tại Việt Nam tăng tưởng ấn tượng, ở mức 26% trong năm 2017. Bên cạnh đó, Việt Nam đứng đầu Đông Nam Á về tỷ lệ chuyển đổi - số phần trăm của số lượt truy cập website có thể dẫn đến mua sắm thành công.
Các DN TMĐT tại Việt Nam có tỷ lệ chuyển đổi lên đến 65%, cao nhất trong khu vực (Singapore sở hữu tỷ lệ chuyển đổi cao thứ hai và Indonesia bám sát ở vị trí thứ ba).
Theo đánh giá của Hội DN hàng Việt Nam chất lượng cao, những năm gần đây, với sự ra đời của hàng loạt các website TMĐT như Lazada, Tiki, Shopee, Sendo, Adayroi… việc mua sắm online đã không còn xa lạ với người người tiêu dùng Việt. Thị trường mua sắm trực tuyến trở nên sôi động hơn khi người tiêu dùng trẻ tham gia vào việc mua bán trên mạng xã hội ngày càng nhiều.
Trong báo cáo nghiên cứu của Công ty TNHH CBRE Việt Nam vừa đưa ra cũng cho thấy, có 45-50% người tiêu dùng cho rằng, sẽ mua sắm trực tuyến thông qua máy tính để bàn/máy tính xách tay hay điện thoại thông minh/máy tính bảng, thường xuyên hơn trong tương lai; 25% người tiêu dùng được khảo sát dự định sẽ giảm tần suất mua sắm tại cửa hàng thực tế.
Kết quả này cũng đồng thuận với kết quả khảo sát năm 2018 của Hội DN hàng Việt Nam chất lượng cao khi số người tiêu dùng chọn mua trực tuyến đã tăng gấp ba lần (2,7%) so với năm 2017 (0,9%).
Đối với ngành Du lịch, tỷ lệ đặt phòng qua đại lý du lịch trực tuyến năm 2017 chiếm 30% doanh thu (tăng mạnh so với mức 20% của năm 2016). Điều này cho thấy, mô hình kinh tế chia sẻ trong lĩnh vực du lịch đã bắt đầu hình thành rõ nét và có khuynh hướng trở thành những sàn giao dịch trực tuyến.
Đánh giá hiệu quả của việc bán hàng qua các công cụ trực tuyến, 39% DN tham gia khảo sát bỏ phiếu cho mạng xã hội (cao nhất trong các công cụ trực tuyến), đứng vị trí thứ hai là bán hàng thông qua trang web của DN, với 35%.
Đánh giá bức tranh toàn cảnh TMĐT Việt Nam 2017 với mức tăng trưởng 25%, Hãng nghiên cứu Neilsen cho rằng, con số này đã phản ánh đúng thực tế thị trường. Đến năm 2020, dự kiến tại Việt Nam có khoảng 30% dân số tham gia mua sắm online.
Những tồn tại và thách thức đối với công tác quản lý
Mặc dù mang lại những lợi ích kinh tế rất lớn, nhưng TMĐT cũng đặt ra không ít khó khăn thách thức đối với quản lý nhà nước, DN và xã hội. Đối với cơ quan quản lý nhà nước là những thách thức về xây dựng và áp dụng chính sách; Đối với các DN cần thay đổi cơ cấu, nhân sự và quy trình làm việc.
Để triển khai thành công và hiệu quả TMĐT, DN phải có một cơ sở hạng tầng thương mại thông tin vững chắc, phải có đội ngũ nhân lực công nghệ thông tin đủ mạnh để có khả năng vận hành, quản trị và phát triển hệ thống này.
Mặt khác, bản chất của TMĐT là giao dịch một cách gián tiếp, bên mua và bên bán thậm chí còn không biết với nhau. Điều này dẫn đến những lo ngại giữa người mua và người bán đó là thách thức về lòng tin.
Khảo sát của Công ty TNHH CBRE Việt Nam, DN luôn gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động có kỹ năng về công nghệ thông tin và TMĐT. Nếu như năm 2015 có 24% DN gặp khó khăn thì năm 2016 là 29% và năm 2017 lên tới 31%.
Cùng với đó, thời gian trung bình lưu lại của khách hàng trên trang web TMĐT phiên bản di động hoặc ứng dụng bán hàng trên di động của DN chưa cao. 45% DN cho biết, thời gian trung bình lưu lại của khách hàng khi truy cập là từ 5-10 phút, 30% lưu lại dưới 5 phút, và tỷ lệ truy cập lưu lại trang trên 10 phút rất thấp.
Kết quả khảo sát cho thấy, mạng xã hội và công cụ tìm kiếm là hai hình thức quảng cáo đem lại hiệu quả cao nhất cho DN với tỷ lệ lần lượt là 46% và 39%. Các vị trí tiếp theo thuộc về hình thức quảng cáo tin nhắn và ứng dụng di động (22%), báo điện tử (21%).
Cùng với những tồn tại trên, thực tế tồn tại một số rào cản quản lý hoạt động TMĐT như:
Thứ nhất, hiện nay ở Việt Nam không có tổ chức nào đứng ra tập hợp và chuẩn hóa các hoạt động kinh doanh trên website TMĐT của các DN trong nước.
Mặc dù, trên danh nghĩa tất cả các công ty hoạt động trên mạng đều thuộc quản lý của Bộ Công Thương, tuy nhiên, hoạt động của Bộ Công Thương lại mang tính chất quản lý nhà nước nói chung, do đó nhu cầu về việc có một tổ chức uy tín lập ra nhằm tập hợp các DN đồng thời răn đe các tổ chức, cá nhân có hành vi cạnh tranh không lành mạnh là rất cần thiết.
Việc lập ra tổ chức như vậy đồng thời cũng là công cụ giúp các thương nhân có cùng lợi ích có thể tìm được đối tác của họ, giúp tạo nên một môi trường kinh doanh ổn định hơn.
Thứ hai, chưa phân định rõ chức năng của các cơ quan giám sát. Thông tư số 47/2014/TT-BCT ngày 05/12/2014 của Bộ Công Thương quy định, các cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu các website TMĐT bán hàng có trách nhiệm phải thông báo, đăng ký với Bộ Công Thương.
Tuy nhiên, Thông tư chỉ quy định trách nhiệm thông báo, đăng ký, không quy định rõ ràng về trách nhiệm kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, dẫn đến việc các cơ quan có liên quan đùn đẩy trách nhiệm kiểm tra, giám sát cho nhau. Do đó, nhiều cá nhân, tổ chức đã tìm mọi cách để không phải thông báo, đăng ký mà vẫn không bị bất cứ một cơ quan chức năng nào xử phạt.
Để thu thuế các chủ sở hữu website TMĐT thì cơ quan thuế phải phối hợp và lấy thông tin nguồn dữ liệu kê khai hoạt động TMĐT từ Cục TMĐT nhưng hiện nay việc không kiểm soát được vấn đề đăng ký của các cá nhân tổ chức kinh doanh dẫn đến hệ quả thất thu thuế cho Nhà nước.
Thứ ba, thiếu các công cụ nhằm xử lý các tranh chấp phát sinh trong quá trình mua bán trên website TMĐT. Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 được lấy làm căn cứ để giải quyết các tranh chấp trong mua bán hàng hóa trên website TMĐT, trong đó có quy định thông điệp dữ liệu điện tử là chứng cứ.
Vậy có thể hiểu chứng cứ điện tử là những chứng cứ được lưu giữ dưới dạng tín hiệu điện tử trong máy tính hoặc trong các thiết bị có bộ nhớ kỹ thuật số có liên quan đến vụ tranh chấp. Để giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh trên website TMĐT thì phải thu thập các chứng cứ điện tử.
Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 chỉ đề cập đến chứng cứ mà không quy định cách thức thu thập chứng cứ điện tử như thế nào, quy trình ra sao, quyền và nghĩa vụ của chủ thể có liên quan khi tiến hành thu thập chứng cứ ra sao? Điều này gây ra rất nhiều khó khăn cho không chỉ đối với cơ quan tòa án mà cả đối với các bên đương sự.
Thứ tư, gian lận trong TMĐT hiện nay đang là vấn đề nhức nhối đối với cơ quan chức năng, đặc biệt là vấn đề bảo vệ người tiêu dùng. Các khiếu nại của khách hàng chủ yếu liên quan đến việc khách hàng đã thanh toán nhưng không nhận được sản phẩm, dịch vụ, hoặc sản phẩm, dịch vụ kém chất lượng, hoặc bị mất thông tin cá nhân của chủ tài khoản.
Các sản phẩm, dịch vụ mà người tiêu dùng xem xét và chấp nhận đặt mua trên website TMĐT có thể không hoàn toàn giống với sản phẩm, dịch vụ được cung cấp trên thực tế, điều này rất dễ gây mất niềm tin cho người tiêu dùng.
Về vấn đề thông tin cá nhân, rất nhiều người tiêu dùng bức xúc khi tên, tuổi, số điện thoại, địa chỉ của họ có thể bị các DN sử dụng phương thức TMĐT cung cấp cho bên thứ ba, gây ảnh hưởng đến sự an toàn và bảo mật thông tin của khách hàng.
Việc thực hiện xử lý vi phạm đối với các DN gian lận cũng rất khó khăn do việc thực hiện kiểm tra, truy tìm được những DN “ảo” không đơn giản. Chế tài xử phạt cũng mới chỉ dừng lại ở xử phạt vi phạm hành chính nên chưa đủ sức răn đe.
Nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát hoạt động thương mại điện tử
Để tiếp tục phát huy hiệu quả hoạt động của TMĐT, một trong những giải pháp đặt ra là cần phát huy cao vai trò của kiểm soát, giám sát. Theo đó, một số vấn đề cần tập trung thực hiện gồm:
Thứ nhất, nghiên cứu, hoàn thiện các chính sách quản lý hoạt động giao dịch điện tử. Ở Việt Nam hiện nay có hệ thống pháp luật quản lý hoạt động giao dịch TMĐT như: Luật Giao dịch điện tử, Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về TMĐT, Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007 quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số, Nghị định số 27/2007/NĐ-CP ngày 23/02/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính… Hoạt động TMĐT ở Việt Nam phát triển nhanh và đa dạng, đồng thời cũng xuất hiện những mô hình mang danh nghĩa TMĐT thu hút đông người tham gia, song vẫn còn một số bất cập, hạn chế trong việc quản lý chống thất thu thuế.
Khắc phục vấn đề này, ngày 16/5/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về TMĐT thay thế cho Nghị định 57/2006/NĐ-CP về TMĐT.
Nghị định số 52/2013/NĐ-CP đã quy định cụ thể về những hành vi bị cấm trong TMĐT, quy định chặt chẽ trách nhiệm của các thương nhân cung cấp các dịch vụ bán hàng trực tuyến, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về TMĐT, từ đó tạo môi trường thuận lợi hơn cho TMĐT, nâng cao lòng tin của người tiêu dùng khi tham gia mua sắm trực tuyến.
Các văn bản chính sách trên đã phần nào đáp ứng được yêu cầu từ thực tiễn của hoạt động TMĐT ở Việt Nam. Tuy nhiên, trước tốc độ phát triển của giao dịch TMĐT ở Việt Nam, thời gian tới cần nhanh chóng tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý trong Luật TMĐT, Luật Công nghệ thông tin nhằm quản lý tiến trình giao dịch trên mạng, làm cơ sở pháp lý để điều chỉnh hoạt động giao dịch TMĐT.
Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà nước cần nỗ lực hơn nữa trong việc triển khai thực hiện các văn bản đã ban hành. Đặc biệt, trong quá trình triển khai cần chú ý đến các hoạt động hướng dẫn, phổ biến để mọi người hiểu đúng chính sách và thực hiện tốt.
Thứ hai, tăng cường quản lý của Nhà nước, thành lập tổ chức kiểm soát hoạt động của các DN kinh doanh trên website. Để kiểm soát dễ dàng hơn hoạt động của các DN, cũng như để răn đe các tổ chức, cá nhân có hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Cần thành lập một tổ chức đứng ra tập hợp và chuẩn hóa các hoạt động kinh doanh của các DN trong nước, đảm bảo cho việc kinh doanh được thực hiện một cách lành mạnh, qua đó tổ chức này cũng có chức năng kiểm soát, giám sát hoạt động của các DN này.
Tuy nhiên, tổ chức này cần có mối liên hệ chặt chẽ với các bộ, ban, ngành có liên quan để việc kiểm soát hoạt động bán hàng trên website TMĐT được thuận lợi hơn.
Thứ ba, cần có sự phối hợp chặt chẽ từ các bộ, ban, ngành trong việc xử lý, giải quyết các vấn đề liên quan đến TMĐT. Đặc biệt, đối với việc thu thuế những người kinh doanh trên mạng xã hội thì các bộ, ban, ngành phối hợp chặt chẽ với nhau.
Chẳng hạn như: Cục Thuế cần phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Công Thương, các nhà mạng và ngân hàng cùng quản lý, giám sát số lượng hàng hóa, doanh thu của người kinh doanh để đối chiếu với việc việc kê khai của người nộp thuế có đúng, đủ hay không.
Cùng với đó, thường xuyên thanh tra, giám sát các hoạt động này tại các ngân hàng, các trang điện tử mua bán trực tuyến để tránh tình trạng trốn thuế của DN.
Thứ tư, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng thông tin. Cần có biện pháp đầu tư xây dựng hạ tầng truyền thông mạnh, nâng cao chất lượng dịch vụ internet, tăng tốc độ đường truyền, tránh tình trạng nghẽn mạch, đảm bảo tính bảo mật đường truyền cao; Xây dựng hạ tầng cơ sở về thông tin: Trung tâm chứng thực, hạ tầng thanh toán điện tử, cổng thanh toán… tạo điều kiện khuyến khích các nhà cung cấp giải pháp an ninh mạng phát triển.
Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực an ninh mạng. Cụ thể, cần tăng cường phối hợp với cơ quan quản lý của các nước trong khu vực và trên thế giới để xây dựng khung chung đảm bảo an ninh mạng và bảo vệ hạ tầng thông tin trọng yếu; Đồng thời, hợp tác giữa các tổ chức xây dựng chuẩn quốc tế, các chính phủ liên quan tới an ninh mạng nhằm xây dựng văn hóa an ninh mạng, các tiêu chuẩn kỹ thuật, cảnh báo và phản ứng nhanh trước các sự kiện an ninh mạng.
Thứ sáu, cần nâng cao khả năng quản trị DN thông qua hợp tác và tăng sức cạnh tranh. Theo đó, các DN cần nghĩ đến phương án xây dựng mối quan hệ cộng sinh cho riêng mình, hợp tác để đáp ứng từng phần trong quy trình TMĐT.
Thứ bảy, đẩy mạnh đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Muốn phát triển TMĐT, ngoài việc đòi hỏi phải có một đội ngũ chuyên gia tin học mạnh, thường xuyên bắt kịp các thành tựu công nghệ thông tin mới phát sinh, có khả năng thiết kế các phần mềm đáp ứng các nhu cầu của kinh tế số hóa, cũng đòi hỏi mỗi người tham gia TMĐT phải có khả năng sử dụng máy tính, có thể trao đổi thông tin một cách thành thạo trên mạng, có những hiểu biết cần thiết về thương mại, luật pháp… Bởi vậy, cần đào tạo các chuyên gia tin học và phổ cập kiến thức về TMĐT không những cho các DN, các cán bộ quản lý của nhà nước mà cho cả mọi người dân.
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội, Luật Giao dịch điện tử;
2. Chính phủ, Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007 quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số;
3. Chính phủ, Nghị định số 27/2007/NĐ-CP ngày 23/02/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính;
4. Chính phủ, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử;
5. Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam, 2018, Báo cáo chỉ số thương mại điện tử Việt Nam năm 2018;
6. Công ty TNHH CBRE Việt Nam, Báo cáo khảo sát, hoạt động thương mại điện tử Việt Nam;
7. Tập đoàn iPrice, Kết quả kháo sát thống kê từ 1.000 DN thương mại điện tử 2017.