Hỗ trợ lãi suất đến 100% nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp

Theo baohaiquan.vn

(Tài chính) Thực hiện chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp, Bộ Tài chính vừa quy định mức hỗ trợ, cấp bù và nguồn vốn hỗ trợ lãi suất và cấp bù chênh lệch lãi suất. Theo đó, các khoản vay để mua các loại máy móc, thiết bị quy định tại Khoản 2 Điều 1 Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg được ngân sách nhà nước (NSNN) hỗ trợ 100% lãi suất trong 2 năm đầu, 50% lãi suất trong năm thứ ba.

Việc cấp bù chênh lệch lãi suất nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp. Nguồn: internet
Việc cấp bù chênh lệch lãi suất nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp. Nguồn: internet

Quy định trên hướng dẫn tại Thông tư số 89/2014/TT-BTC hướng dẫn hỗ trợ lãi suất vay vốn và cấp bù chênh lệch lãi suất do thực hiện chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp, chính thức có hiệu lực từ ngày 22/8/2014.

Hình thức thực hiện hỗ trợ lãi suất vay vốn và cấp bù chênh lệch lãi suất như sau: Ngân hàng thương mại cho vay thực hiện việc hỗ trợ lãi suất hoặc hỗ trợ phần chênh lệch giữa lãi suất thương mại và lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn thuộc đối tượng quy định tại Điều 1, Điều 2 Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

NSNN hỗ trợ lãi suất vốn vay thương mại hoặc cấp bù phần chênh lệch giữa lãi suất thương mại và lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho ngân hàng thương mại thực hiện cho vay theo quy định.

Mức hỗ trợ lãi suất và cấp bù chênh lệch lãi suất được quy định như sau: Các khoản vay để mua các loại máy móc, thiết bị quy định tại Khoản 2 Điều 1 Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg được NSNN hỗ trợ 100% lãi suất trong 2 năm đầu, 50% lãi suất trong năm thứ ba. Thời điểm hỗ trợ lãi suất đối với từng khoản vay được tính từ ngày giải ngân.

Các khoản vay để thực hiện các dự án đầu tư dây chuyền máy, thiết bị; các dự án chế tạo máy, thiết bị sản xuất nông nghiệp quy định tại Khoản 2 Điều 2 Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg được NSNN cấp bù chênh lệch giữa lãi suất cho vay thương mại của các ngân hàng thương mại và lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Thời điểm cấp bù chênh lệch lãi suất đối với từng khoản vay được tính từ ngày giải ngân.

Thời gian được nhà nước cấp bù chênh lệch lãi suất bằng thời hạn cho vay quy định tại khoản 5 Điều 2 Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg, tối đa không quá 12 năm.

Mức lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại làm cơ sở để NSNN hỗ trợ lãi suất và cấp bù chênh lệch lãi suất là mức lãi suất cho vay thấp nhất của ngân hàng thương mại có hoạt động cho vay theo Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg được áp dụng cho vay cho các khoản vay vốn phục vụ lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn cùng kỳ hạn và cùng thời kỳ được ngân hàng thương mại niêm yết công khai tại các điểm giao dịch.

Mức lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước làm căn cứ cấp bù chênh lệch lãi suất theo quy định tại Điều 2 Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg là mức lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước công bố áp dụng cho từng thời kỳ.

Nguồn vốn hỗ trợ lãi suất và cấp bù chênh lệch lãi suất thực hiện chính sách hỗ trợ giảm tổn thất trong nông nghiệp được bố trí trong dự toán chi cấp bù chênh lệch lãi suất cho vay tín dụng ưu đãi (vốn đầu tư phát triển) của  hàng năm.

Thu hồi ngay vốn vay nếu có sai phạm

Bộ Tài chính cũng quy định xử lý việc thu hồi số tiền đã hỗ trợ lãi suất vay vốn và cấp bù chênh lệch lãi suất.

Theo đó, trường hợp trong thời gian hỗ trợ, các ngân hàng thương mại qua kiểm tra khách hàng vay vốn mà phát hiện sai phạm trong việc sử dụng vốn vay của khách hàng thì tiến hành chuyển khoản vay sai phạm được nhà nước hỗ trợ thành khoản vay thông thường và tiến hành thu hồi ngay số tiền ngân hàng đã tạm ứng hỗ trợ cho khách hàng vay vốn.

Trường hợp sai phạm của khách hàng vay vốn được phát hiện sau khi quyết toán của các cơ quan quản lý nhà nước, các ngân hàng thương mại có trách nhiệm thu hồi số tiền được nhà nước hỗ trợ và nộp trả về NSNN.

Đối với trường hợp số tiền hỗ trợ lãi suất của các khách hàng vay vốn có sai phạm đã được các ngân hàng thương mại dùng mọi biện pháp để tận thu nhưng không thu hồi được, các ngân hàng thương mại có báo cáo cụ thể từng trường hợp gửi về Bộ Tài chính để được hướng dẫn xử lý.