Hoàn thiện công tác kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước Trà Vinh
Nghiên cứu này được tiến hành trên cơ sở các nguồn số liệu thứ cấp thu thập được từ các công chức làm công tác kiểm soát chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc Nhà nước tỉnh, Kho bạc Nhà nước cấp huyện trên địa bàn tỉnh Trà Vinh và các chuyên viên của 100 đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước giao dịch qua Kho bạc Nhà nước địa phương. Thông qua các phương pháp thống kê mô tả và so sánh, tác giả phân tích thực trạng, những tồn tại, hạn chế của công tác kiểm soát chi ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Trà Vinh thời gian qua, từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát chi ngân sách nhà nước trên địa bàn trong thời gian tới.
Những năm qua, công tác kiểm soát chi (KSC) ngân sách nhà nước (NSNN) qua hệ thống Kho bạc Nhà nước (KBNN) nói chung và KBNN tỉnh Trà Vinh nói riêng đã có những chuyển biến tích cực, góp phần hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và nhiệm vụ chính trị được giao. Tuy nhiên, hiện nay cơ chế KSC chưa đồng bộ, toàn bộ công việc KSC NSNN chỉ do 1 bộ phận kiểm soát, trong khi số lượng biên chế lại hạn chế... Những yếu tố này khiến quá trình kiểm soát đôi khi chưa thật sự chặt chẽ, chưa kịp thời, từ đó ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng.
Vấn đề đặt ra hiện nay là cần quản lý, KSC NSNN đảm bảo nhanh chóng, chặt chẽ, tiết kiệm, đúng mục đích, hiệu quả nhất và hạn chế tối đa các rủi ro, sai sót có thể xảy ra. Vì vậy, việc hoàn thiện công tác KSC NSNN tại KBNN tỉnh Trà Vinh có ý nghĩa rất quan trọng.
Thực trạng công tác kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc nhà nước Trà Vinh
Nghiên cứu tiến hành khảo sát 60 công chức làm công tác KSC NSNN tại KBNN tỉnh, KBNN cấp huyện trên địa bàn tỉnh Trà Vinh cùng các chuyên viên của 100 đơn vị sử dụng ngân sách được KSC qua KBNN Trà Vinh (trong đó có 29 đơn vị sự nghệp, 15 ban quản lý dự án, 22 đơn vị hành chính, 34 đơn vị tổ chức chính trị xã hội). Kết quả khảo sát cho thấy:
Về tình hình nhân sự KSC: Lãnh đạo KBNN Trà Vinh xác định nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng, quyết định sự thành công các hoạt động của hệ thống KBNN Trà Vinh. Do đó, ngay từ khi mới thành lập vào năm 1992, lãnh đạo KBNN Trà Vinh đã chú trọng công tác tuyển dụng, đào tạo và thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, đặc biệt là công chức làm công tác chuyên môn nghiệp vụ.
Hàng năm, KBNN Trà Vinh luôn chú trọng công tác nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn cho toàn thể đội ngũ công chức của Ngành. Đến nay, đội ngũ nhân sự KSC cơ bản đáp ứng yêu cần nhiệm vụ KBNN trên địa bàn đến năm 2020.
Về cải cách hành chính trong lĩnh vực KSC: Kết quả điều tra các đơn vị sử dụng ngân sách thông qua KBNN Trà Vinh về cải cách hành chính đối với KSC cho thấy, cơ bản các đơn vị sử dụng ngân sách có sự hài lòng đối với các hồ sơ niêm yết thống nhất với yêu cầu của công chức thực hiện KSC.
KBNN Trà Vinh luôn chú trọng công tác nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn cho toàn thể đội ngũ công chức của Ngành. Đến nay, đội ngũ nhân sự KSC cơ bản đáp ứng yêu cần nhiệm vụ KBNN trên địa bàn đến năm 2020.
Về kết quả giải quyết công việc: Khảo sát các đơn vị sử dụng ngân sách về kết quả giải quyết công việc của công chức KSC KBNN Trà Vinh cho thấy, các công chức KSC đã nỗ lực hoàn thiện quy trình giao dịch một cửa, nâng cao trách nhiệm thông qua việc hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ, kiểm tra sự đầy đủ, tính hợp pháp, hợp lệ, hợp lý của hồ sơ, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận nghiệp vụ. Ngoài ra, việc đảm bảo đúng thời gian trả kết quả và tạo điều kiện để các đơn vị sử dụng ngân sách có thông tin về tiến độ, tình trạng hồ sơ cũng được cán bộ, công chức trên địa bàn thực hiện tốt, được đánh giá cao.
Về điều kiện đón tiếp và phục vụ: Kết quả khảo sát cho thấy, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ cho công việc và đáp ứng các tiện ích cho khách hàng tại KBNN Trà Vinh được đánh giá rất tốt. Các đơn vị sử dụng ngân sách đánh giá nơi giao dịch của KBNN Trà Vinh được bố trí thuận tiện, rộng rãi, thoáng mát, hiện đại và dễ nhận biết, đây là điểm thuận lợi của KBNN Trà Vinh. Ngoài ra, việc phục vụ đầy đủ nước uống và có chỗ để xe an toàn cũng được đánh giá tốt, góp phần gia tăng sự hài lòng của các khách hàng đơn vị khi đến giao dịch.
Về ứng dụng công nghệ thông tin: Các đơn vị sử dụng ngân sách đánh giá cao hoạt động đầu tư và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác KSC tại KBNN Trà Vinh. Trong đó, hệ thống TABMIS đóng vai trò trung tâm, có khả năng kết nối, trao đổi thông tin dữ liệu với một số hệ thống liên quan (cơ sở dữ liệu thu chi NSNN; hệ thống thanh toán với ngân hàng; hệ thống quản lý nợ…) để cung cấp thông tin báo cáo đầy đủ, kịp thời cho các cấp chính quyền và cơ quan tài chính trong quá trình quản lý điều hành. Ngoài ra, việc cung cấp rõ ràng, dễ hiểu các thông tin quy định, chính sách, thủ tục hồ sơ biểu mẫu cũng được các đơn vị đánh giá tốt. Qua kết quả đánh giá cho thấy, yếu tố ứng dụng công nghệ thông tin trong KSC của KBNN Trà Vinh rất đáng khích lệ.
Bên cạnh các kết quả đạt được, thực tế công tác KSC NSNN qua KBNN Trà Vinh cũng cho thấy còn có một số hạn chế, tồn tại gồm:
Thứ nhất, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan trong công tác quản lý chi chưa được thể hiện rõ.
Còn nhiều cơ quan, đơn vị cùng tham gia quản lý, kiểm soát thanh toán chi NSNN như: đơn vị sử dụng NSNN, cơ quan tài chính và KBNN, tuy nhiên, quy định về trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan, đơn vị trong việc quản lý, KSC NSNN chỉ mới đề cập ở mức độ chung chung, chưa cụ thể, còn trùng lặp và chồng chéo. Đơn vị sử dụng NSNN là đơn vị đầu tiên thực hiện KSC, việc KSC được thực hiện cả trước, trong và sau quá trình chi tiêu. Tuy nhiên, trên thực tế một số đơn vị ít kiểm soát, kiểm soát một cách hình thức, còn đẩy trách nhiệm kiểm soát chính cho KBNN.
Thứ hai, một số sai sót trong thực hiện nghiệp vụ của cán bộ, công chức. Do thực hiện các đề án tập trung đầu mối KSC, việc sáp nhập công việc KSC thường xuyên và KSC đầu tư chung một đầu mối nên công chức làm công tác KSC bước đầu còn lúng túng, chưa sâu, còn chậm trễ, xảy ra sai sót trong nghiệp vụ.
Thứ ba, cơ chế cấp phát dự toán chưa hiệu quả. Việc KSC thường xuyên theo hình thức dự toán chưa gắn với hiệu quả chi tiêu NSNN, chưa tạo sự chủ động cho đơn vị sử dụng NSNN. KSC của KBNN vẫn dựa theo phương thức quản lý đầu vào (dự toán, tiêu chuẩn, định mức), chưa chú trọng đến kết quả đầu ra, chưa tạo sự chủ động cho đơn vị sử dụng NSNN.
Lĩnh vực hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản có phạm vi rất rộng, đa dạng, phức tạp, có tính đặc thù riêng, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, có nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Cũng do tính chất đa dạng, phức tạp của lĩnh vực này là thường xuyên xuất hiện các tình huống mới nên các văn bản quy định pháp luật không ổn định, có một số quy định chồng chéo dẫn đến nhiều vướng mắc từ khâu chuẩn bị đến khâu triển khai thực hiện, tạm ứng, thanh toán, quyết toán.
Thứ tư, công tác lập, phân bổ, chấp hành dự toán của các đơn vị còn nhiều hạn chế.
- Chất lượng lập dự toán của nhiều đơn vị sử dụng NSNN còn thấp, chưa bao quát hết yêu cầu nhiệm vụ chi trong năm kế hoạch; ngân sách chi thường xuyên và ngân sách chi đầu tư phát triển được lập một cách riêng lẻ, độc lập; lập dự toán sai mẫu biểu, không đúng mục lục NSNN... Vì vậy, trong quá trình chấp hành dự toán chi, đơn vị phải xin bổ sung hoặc điều chỉnh dự toán nhiều lần làm tăng khối lượng công việc của KBNN, gây lãng phí thời gian và công sức.
- Việc phân bổ dự toán còn nặng về hình thức, coi nhẹ nhu cầu chi tiêu của cấp dưới và chưa xem xét đúng mức đặc điểm, tình hình cụ thể trong kỳ kế hoạch nên việc phân bổ dự toán còn cào bằng, chưa phù hợp với thực tế.
- Công tác giao dự toán còn chậm so với thời gian quy định của Luật NSNN. Trong những tháng đầu năm và nhất là tháng 01 hàng năm, khi chưa có dự toán được giao, đơn vị chỉ được tạm cấp dự toán để chi cho các nhu cầu thiết yếu, vì vậy gây khó khăn rất lớn cho đơn vị sử dụng NSNN và công tác KSC của KBNN.
- Hiện tượng giao dự toán nhiều lần theo từng quý hoặc cấp bổ sung nhiều lần trong năm vẫn còn diễn ra ở một số đơn vị gây khó khăn cho KBNN trong việc hạch toán và quản lý dự toán chi.
Thứ năm, nội dung kiểm soát các khoản chi còn nhiều bất cập.
- Quy trình thực hiện cam kết chi chưa đạt được mục đích ngăn chặn tình trạng nợ đọng trong thanh toán tại các đơn vị sử dụng NSNN một cách toàn diện. Cam kết chi được thực hiện sau khi đơn vị ký kết hợp đồng với nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Hợp đồng đã được ký kết nhưng nếu đơn vị thực hiện cam kết chi bị KBNN từ chối do không đủ điều kiện chi thì đơn vị vẫn bị ràng buộc nghĩa vụ tài chính với nhà cung cấp, tức là vẫn tồn tại nợ đọng trong thanh toán.
- Việc thanh toán tạm ứng dồn về cuối năm, gây áp lực về thời gian cho công chức KSC nên KSC không chặt chẽ, kịp thời theo đúng quy định.
- Đối với các khoản chi thuộc diện phải thực hiện đấu thầu, còn xảy ra tình trạng đơn vị sử dụng NSNN chia nhỏ gói thầu để tránh đấu thầu.
- KBNN Trà Vinh còn đang thực hiện thủ công công việc tiếp nhận hồ sơ, chưa có chương trình tin học hỗ trợ đầy đủ nên việc quản lý giao dịch theo cơ chế “một cửa” vẫn còn xảy ra những tiêu cực trong quá trình giao nhận, xử lý hồ sơ, chứng từ, còn để khách hàng phản ánh trễ hẹn, công tác quản lý văn bản và quản lý hồ sơ đăng ký mẫu dấu còn thực hiện thủ công.
Thứ sáu, một số hạn chế trong ứng dụng công nghệ, tin học. Do có nhiều chương trình ứng dụng nên công chức KSC và lãnh đạo phải ghi nhớ nhiều mật khẩu từng phần mềm, phải thường xuyên thay đổi mật khẩu... Đường truyền một số chương trình lớn quá tải, xử lý chậm, nhất là những này đầu tháng, cuối tháng, đầu năm, cuối năm.
Phương hướng hoàn thiện công tác kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước Trà Vinh
Mục tiêu tổng quát Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020 là: “Xây dựng KBNN hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển ổn định vững chắc trên cơ sở cải cách thể chế chính sách, hoàn thiện tổ chức bộ máy, gắn với hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực... Đến năm 2020, các hoạt động của KBNN được thực hiện trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại và hình thành Kho bạc điện tử”. Để đạt được mục tiêu chiến lược trên, hệ thống KBNN phải không ngừng đổi mới mọi lĩnh vực hoạt động, trong đó đổi mới và hoàn thiện công tác KSC NSNN có ý nghĩa quan trọng, quyết định.
Để hoàn thiện công tác KSC NSNN qua KBNN Trà Vinh, một số nội dung cần tập trung giải quyết gồm:
Một là, trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính nói chung và đổi mới cơ chế quản lý NSNN nói riêng, mọi khoản chi NSNN phải đảm bảo tính tiết kiệm và có hiệu quả. Kiểm soát chặt chẽ các khoản chi NSNN góp phần thực hành tiết kiệm, tập trung mọi nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế, xã hội, chống các hiện tượng tiêu cực, chi tiêu lãng phí góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ và làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia.
Hai là, yêu cầu phải có cơ quan có thẩm quyền thực hiện kiểm tra, giám sát quá trình chi tiêu để phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hiện tượng tiêu cực; đồng thời phát hiện những kẽ hở trong cơ chế quản lý. Trong quá trình kiểm tra, kiểm soát, cần có những kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung hay kịp thời ban hành những cơ chế quản lý phù hợp, chặt chẽ hơn, tránh sai phạm và lãng phí có thể xảy ra trong việc sử dụng NSNN của các cơ quan, đơn vị.
Ba là, hoạt động KSC cần phải có đội ngũ cán bộ công chức chuyên môn chuyên sâu về quản lý tài chính, am hiểu về lĩnh vực chuyên ngành mình quản lý, có khả năng phân tích, xử lý thông tin được cung cấp và giám sát đối chiếu với các quy định hiện hành của Nhà nước. Vì thế, phải thiết kế bộ phận KSC từ mô hình tổ chức KSC, số lượng và chất lượng nhân viên làm công tác KSC phù hợp.
Bốn là, để thực hiện tốt công tác KSC NSNN qua KBNN, phải có sự phối hợp tốt giữa KBNN với các cơ quan, đơn vị trên địa bàn. KBNN cần tranh thủ sự hỗ trợ của cấp ủy, chính quyền địa phương, chủ động tham mưu cho UBND, HĐND các cấp ban hành các văn bản thuộc lĩnh vực NSNN để KBNN có cơ sở pháp lý thực hiện kiểm soát các khoản chi ngân sách do địa phương quản lý.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn, NXB Tài chính, Hà Nội – 2017;
2. Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật NSNN, Hà Nội;
3. Thông tư số 161/2012/TT-BTC ngày 02/10/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN, Hà Nội;
4. Thông tư số 39/2016/TT -BTC ngày 01/3/2016 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 161/2012/TT-BTC ngày 02/10/2012 hướng dẫn chế độ kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN.