Khơi thông nguồn vốn tín dụng cho năng lượng tái tạo ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia giàu tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo. Do đó, thời gian qua, các dự án năng lượng tái tạo đã được triển khai với sự hỗ trợ rất lớn từ hệ thống các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, quá trình thực hiện vẫn xuất hiện một số bất cập, gây rủi ro đối với nhà đầu tư lẫn tổ chức tín dụng, điều này đặt ra bài toán cần giải quyết nhằm thúc đẩy và khơi thông nguồn tín dụng cho năng lượng tái tạo một cách bền vững.
Tín dụng phục vụ phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam
Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc khai thác các nguồn năng lượng tái tạo để phục vụ nhu cầu xã hội, đảm bảo các mục tiêu an ninh năng lượng. Điều này được thể hiện qua hàng loạt văn bản được ban hành như: Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Nghị quyết số 55/NQ-TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (đặt ra mục tiêu phấn đấu tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt khoảng 15-20% vào năm 2030 và 25-30% vào năm 2045); Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 1/10/2021 ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh; Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 (quy định, phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo là một trong những chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường…
Tại Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP 26), Việt Nam cũng đưa ra cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050, giảm 30% tổng phát thải khí mê-tan vào năm 2030 so với năm 2020, chuyển đổi điện than sang năng lượng tái tạo và nhiều sáng kiến toàn cầu khác. Ngay sau Hội nghị COP 26, với tinh thần hợp tác hành động, Chính phủ Việt Nam đã chủ động và tích cực triển khai các cam kết.
Những kết quả đạt được
Trên cơ sở bám sát mục tiêu của Nhà nước và diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ trong và ngoài nước, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành một số văn bản về tín dụng và thực hiện nhiều giải pháp phù hợp với mục tiêu bảo vệ môi trường, giảm phát thải carbon, hướng tới tăng trưởng xanh, qua đó đã tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân thực hiện các dự án hỗ trợ tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, trong đó có hỗ trợ phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Cụ thể là:
- Ban hành Chỉ thị số 03/CT-NHNN, ngày 24/3/2015 về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. Theo đó, hoạt động cấp tín dụng của ngành Ngân hàng chú trọng đến bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, năng lượng, cải thiện chất lượng môi trường và bảo vệ sức khỏe con người, đảm bảo phát triển bền vững.
- Ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020 theo Quyết định số 1552/QĐ-NHNN ngày 6/8/2015. Theo Quyết định số 1552/QĐ-NHNN, NHNN xác định mục tiêu thực hiện có hiệu quả Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, góp phần thúc đẩy quá trình tăng trưởng xanh, tướng tới một nền kinh tế carbon thấp, giảm cường độ phát thải nhà kính, sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên thiên nhiên, phát triển các ngành sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng xanh.
- NHNN đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 986/QĐ-TTg về Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Trong đó, định hướng phát triển tín dụng xanh – ngân hàng là: “Tăng hiệu quả phân bổ nguồn vốn tín dụng phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; thúc đẩy phát triển tín dụng xanh, ngân hàng xanh để góp phần chuyển đổi nền kinh tế sang hướng tăng trưởng xanh, phát thải carbon thấp, thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng tỷ trọng vốn tín dụng ngân hàng đầu tư vào năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, các ngành sản xuất và tiêu dùng ít carbon. Lồng ghép các nội dung về phát triển bền vững, biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh trong các chương trình, dự án vay vốn tín dụng”.
- NHNN ban hành Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam theo Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 7/8/2018. Mục tiêu của Đề án là tăng cường nhận thức và trách nhiệm xã hội của hệ thống ngân hàng đối với việc bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, từng bước xanh hóa hoạt động ngân hàng, hướng dòng vốn tín dụng vào việc tài trợ dự án thân thiện với môi trường, thúc đẩy các ngành sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng xanh, năng lượng sạch và năng lượng tái tạo...
Trong giai đoạn 2017-2021, NHNN cũng đã huy động nguồn lực từ các tổ chức tài chính quốc tế, tài trợ song phương và đa phương nhằm nâng cao năng lực tài chính cho các tổ chức tín dụng thực hiện tín dụng xanh và nguồn lực để thực hiện phát triển bền vững, bao gồm:
(i) Hoàn thiện các điều kiện hiệu lực cho Dự án tiết kiệm năng lượng cho ngành công nghiệp Việt Nam (vốn vay 101,7 triệu USD). Vốn vay ưu đãi sẽ được cung cấp cho các doanh nghiệp công nghiệp nhằm giảm công suất các nguồn phát điện của hệ thống với chi phí thấp nhất, giảm lượng phát thải nhà kính do giảm điện năng tiêu thụ từ các nhà máy nhiệt điện, giảm đốt nhiên liệu hóa thạch, giảm ô nhiễm môi trường.
(ii) Phối hợp với Ngân hàng Thế giới xây dựng dự án nhân rộng hiệu quả năng lượng ở Việt Nam kêu gọi hỗ trợ từ Quỹ khí hậu xanh (tổng vốn hỗ trợ kỹ thuật và quỹ bảo lãnh từ Quỹ là 86,3 triệu USD) để khuyến khích các ngân hàng, tăng tỷ trọng cho vay đối với các dự án tiết kiệm năng lượng.
(iii) Tiếp nhận các hỗ trợ kỹ thuật: phối hợp với Ngân hàng Thế giới đàm phán thành công hỗ trợ kỹ thuật Kế hoạch quản lý loại trừ hóa chất HCFC của Việt Nam giai đoạn 2; hỗ trợ kỹ thuật về Quỹ quy hoạch đầu tư phát triển và xây dựng ngành năng lượng Đông Nam Á trị giá 0,2 triệu USD do ADB tài trợ; dự án hỗ trợ kỹ thuật về sáng kiến và đổi mới tài chính xanh để phát triển cơ sở hạ tầng ở Đông Nam Á.
(iv) Tiếp tục triển khai Dự án tài trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với các dự án xanh do Ban quản lý các dự án tín dụng quốc tế ODA thực hiện. Nhóm lĩnh vực xanh được tài trợ nhiều nhất thông qua dự án này là năng lượng tái tạo, công nghiệp xanh, tiết kiệm và hiệu quả năng lượng.
Ngoài ra, NHNN đã ban hành hướng dẫn đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đối với ngành năng lượng, trong đó có năng lượng tái tạo trong Sổ tay hướng dẫn đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đối với một số ngành sản xuất và kinh doanh. Hướng dẫn này là một tài liệu tham khảo quan trọng cho các tổ chức tín dụng đánh giá rủi ro về môi trường và xã hội trong hoạt động sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp xin cấp tín dụng trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.
Theo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế - NHNN, tính đến hết năm 2021, dư nợ cấp tín dụng đối với các dự án xanh đạt hơn 441.000 tỷ đồng (chiếm 4,2% tổng dư nợ toàn nền kinh tế), tăng 32,5% so với năm 2020. Đặc biệt, dư nợ tín dụng cho các dự án năng lượng tái tạo đạt khoảng hơn 212.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 47% dư nợ cấp tín dụng xanh của toàn hệ thống. Dư nợ cấp tín dụng tập trung chủ yếu vào các dự án điện mặt trời và thủy điện, chiếm 87% tổng dư nợ cấp tín dụng cho năng lượng tái tạo.
Khó khăn, vướng mắc
Trên thực tế, việc tiếp cận vốn tín dụng của các dự án năng lượng tái tạo còn nhiều khó khăn. Trước hết, các dự án đầu tư năng lượng sạch, năng lượng tái tạo có thời gian hoàn vốn đầu tư dài (khoảng 5-10 năm đối với dự án điện mặt trời mái nhà và khoảng 10-15 năm đối với các dự án năng lượng tái tạo khác). Trong khi đó, nguồn vốn mà các ngân hàng thương mại cho vay đối với các dự án này là nguồn vốn thông thường và phải tuân thủ tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn.
Về thẩm định dự án và quản lý vốn cho vay, các quyết định về mức giá mua điện có thời hạn thì hiệu lực quá ngắn (khoảng 2 năm), nên các nhà đầu tư, cũng như các tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong việc tính toán hiệu quả đầu tư khi lập dự án, cũng như lập kế hoạch trả nợ cho ngân hàng. Ngoài ra, hiện vẫn thiếu cơ sở pháp lý, tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá công cụ đo lường tác động đến môi trường để hỗ trợ xây dựng chính sách, sản phẩm phát triển năng lượng tái tạo. Vì vậy, các ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong việc tính toán hiệu quả đầu tư khi lập dự án, cũng như lập kế hoạch trả nợ đối với các khoản cấp tín dụng trung, dài hạn.
Bên cạnh đó, bản thân khách hàng là chủ đầu tư cũng gặp khó khăn trong thực hiện hợp đồng mẫu mua bán điện, thiếu đồng bộ về hệ thống truyền tải, ảnh hưởng đến năng lực giải tỏa công suất theo dự kiến, từ đó ảnh hưởng đến doanh thu, khả năng trả nợ vay của khách hàng.
Ngoài ra, năng lực quản lý của chủ đầu tư cũng ảnh hưởng nhiều đến việc cấp tín dụng cho các dự án năng lượng tái tạo. Nhiều doanh nghiệp triển khai dự án là doanh nghiệp mới được thành lập tại các địa phương, nên các tổ chức tín dụng gặp khó khăn khi thẩm định năng lực tài chính, kinh nghiệm triển khai của khách hàng. Đó là chưa kể, các dự án trong giai đoạn vừa qua đều được các chủ đầu tư thi công gấp rút trong thời gian ngắn để hưởng cơ chế ưu đãi giá, nên không loại trừ khả năng có thể phát sinh rủi ro khi vận hành.
Đề xuất giải pháp
Để hướng dòng vốn tín dụng vào việc tài trợ các dự án thân thiện với môi trường, mở rộng và khơi thông nguồn vốn tín dụng cho năng lượng xanh, năng lượng tái tạo, cần chú trọng thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, việc mở rộng và khai thông nguồn vốn tín dụng cho các lĩnh vực xanh nói chung và năng lượng tái tạo nói riêng đòi hỏi sự phối, kết hợp từ nhiều phía. Do đó, các bộ, ngành cần rà soát, tham mưu hoàn thiện hành lang pháp lý về tiêu chí môi trường và việc xác định đối với dự án được cấp tín dụng xanh; phát hành trái phiếu xanh làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng căn cứ lựa chọn, thẩm định, đánh giá, giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh... Việc huy động trái phiếu xanh được đánh giá là công cụ huy động vốn quan trọng để tài trợ cho các dự án xanh, dự án năng lượng tái tạo, góp phần khuyến khích phát triển, đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững.
Thứ hai, sớm xây dựng lộ trình, cơ chế chính sách (thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển) của từng ngành, lĩnh vực đồng bộ để thu hút và phát huy được tác dụng của nguồn vốn tín dụng xanh; nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường vốn để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn của doanh nghiệp đầu tư dự án xanh, dự án năng lượng tái tạo...
Thứ ba, khuyến khích sự tham gia của nhiều bên vào phát triển năng lượng tái tạo; tạo cơ chế công bằng và định hướng rõ ràng để các doanh nghiệp cùng tham gia. Bên cạnh đó, ban hành các quy định, cơ chế khuyến khích, các khoản miễn thuế, ưu đãi cho vay… để tạo thuận lợi cho việc thu hút có hiệu quả nguồn vốn vào lĩnh vực này.
Thứ tư, hoàn thiện hướng dẫn và xây dựng cơ chế cho tín dụng xanh. Xem xét loại trừ hoặc tính một phần các khoản vay dài hạn cho các dự án tín dụng xanh vào các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn về tỷ lệ tối đa vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn. NHNN cũng nên có các chương trình hỗ trợ hoặc kết nối với các định chế tài chính nước ngoài để có chương trình tái cấp vốn, phát hành trái phiếu xanh ưu đãi cho các ngân hàng, doanh nghiệp tham gia nhiều vào chương trình tín dụng xanh. Cùng với đó, cần ưu tiên giới hạn tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng cho vay vào các dự án năng lượng tái tạo hằng năm.
Ngoài ra, Bộ Công thương và EVN sớm ban hành chính sách về giá điện trong thời gian tới nhằm bảo đảm tính minh bạch, nhất quán, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tại Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
- Bộ Chính trị (2020), Nghị quyết số 55/NQ-TW ngày 11/2/2020 về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
- Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015 phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050;
- NHNN (2015), Quyết định số 1552/QĐ-NHNN ngày 6/8/2015 ban hành Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020;
- Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN (2022), Chính sách tín dụng hỗ trợ phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, kinh nghiệm chính sách của một số nước đang phát triển về thu hút nguồn lực đầu tư, khoản tín dụng đối với dự án năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, Tham luận tại Diễn đàn Năng lượng sạch Việt Nam, ngày 7/4/2022.
* TS. Bùi Thị Hoàng Lan - Khoa Môi trường, biến đổi khí hậu và đô thị - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
** Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 2 tháng 5/2022