Khung lý thuyết các yếu tố ảnh hưởng đến chấp nhận chuyển đổi số doanh nghiệp nhỏ và vừa
Để nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến chấp nhận chuyển đổi số doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, nhóm tác giả vận dụng cơ sở lý thuyết gồm: Học thuyết ra quyết định của Ofstad (1961); Lý thuyết chấp nhận công nghệ (TAM) của Venkatesh & Davis, 2000; Khung lý thuyết TOE (Technology – Organisation - Environment) về các quá trình đổi mới công nghệ của Tornatzky và Fleischer's (1990). Thông qua các nghiên cứu trước đây, nhóm tác giả nhận thấy, có 03 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến chấp nhận chuyển đổi số doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cơ sở lý thuyết
Học thuyết ra quyết định
Ra quyết định là quá trình xây dựng và ban hành quyết định cuối cùng. Hoạt động này bao gồm nhiều giai đoạn với kết quả đầu ra là một quyết định cụ thể. Ofstad (1961) cho rằng “Ra một quyết định tức là đưa ra một phán xét về cái phải làm trong một tình huống nào đó sau khi đã cân nhắc suy nghĩ giữa các hoạt động có thể”.
Theo quan điểm tâm lý học, doanh nghiệp là một loại hình tổ chức, được định nghĩa là một liên minh các cá nhân hay các nhóm người (gọi chung là các tác nhân), trong đó mỗi tác nhân theo đuổi mục đích riêng của họ (Simon, 1959; Cyert và March, 1963). Mở rộng khái niệm và cấu trúc của liên minh, cũng như giới hạn nó, theo cách tiếp cận khoa học quản lý, doanh nghiệp gồm 2 nhóm tham gia chính: các nhà quản lý (người đại diện agents) và các cổ đông (principal). Trên thực tế, doanh nghiệp gồm sự hiện diện của các tác nhân sau: nhân viên (không kể lãnh đạo), các cổ đông, các nhà quản lý, và những người này không hợp thành một nhóm đồng nhất; một vài nhóm khác có thể kể đến nhưng ít quan hệ trực tiếp với doanh nghiệp hơn như: khách hàng, các nhà cung ứng, người tài trợ vốn… (Kœnig, 1998).
Trong các đối tượng trên, “người ra quyết định” với “hoạt động ra quyết định” có vai trò đặc biệt quan trọng. Thực chất, trong doanh nghiệp, ra quyết định là một phần trong hoạt động quản lý. Người ra quyết định trong doanh nghiệp có vai trò quan trọng. Họ là người đưa ra tầm nhìn cho doanh nghiệp và đưa ra quyết định. Mỗi quyết định của người ra quyết định có ảnh hưởng nhất định đến mục tiêu chung của doanh nghiệp. Nếu các thành viên trong doanh nghiệp đối mặt với các lựa chọn trong bối cảnh không thể hoặc khó kiểm soát như đang tham gia vào một cuộc chiến may rủi bất bình đẳng, họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn để tham gia hành động (March, 1988). Khi đó, “người ra quyết định” sẽ đóng vai trò tích cực, trách nhiệm và vai trò ra quyết định cũng khẳng định vị thế và quyền hạn của người ra quyết định trong doanh nghiệp.
Lý thuyết chấp nhận công nghệ “Technology Acceptance Model” (TAM)
Mô hình TAM là một nhánh mở rộng có ảnh hưởng nhất về Lý thuyết hành động hợp lý (TRA) của Ajzen và Fishbein. Mô hình gồm các thành phần: (1) nhận thức của người dùng về tính dễ sử dụng; (2) nhận thức của người dùng về tính hữu ích; (3) thái độ đối với việc chấp nhận sử dụng công nghệ. Mô hình TAM được xây dựng dựa trên thái độ người dùng về thái độ sử dụng hoặc từ chối sử dụng công nghệ; đồng thời đánh giá nhận thức về tính hữu ích và tính dễ sử dụng của công nghệ đối với người dùng. Công nghệ dễ sử dụng thì người dùng sẽ cảm nhận được tính hữu ích của công nghệ. Mô hình TAM được áp dụng rộng rãi (Venkatesh, 2000), ngoài ra nhiều nhà nghiên cứu cũng vận dụng nền tảng mô hình TAM trong các nghiên cứu thực nghiệm về hành vi chấp nhận sử dụng công nghệ trong các nghiên cứu của mình (Y. Lee, Kozar và Larsen, 2003).
Tiếp nối các nghiên cứu phiên bản nâng cấp có TAM2 (Venkatesh và Davis, 2000) và UTAUT - Lý thuyết thống nhất về chấp nhận và sử dụng công nghệ (Venkatesh, Morris, Davis và Davis, 2003). Venkatesh và Davis (2000) phát triển TAM2 bằng cách thêm các yếu tố bên ngoài mô hình chưa chỉ ra ở nghiên cứu trước gồm các quy trình xã hội (tiêu chuẩn chủ quan, sự tự nguyện, hình ảnh); quy trình công cụ nhận thức (mức độ liên quan đến công việc, chất lượng đầu ra, kết quả thể hiện, cảm nhận dễ sử dụng). Kết quả cũng cho thấy, cảm nhận tính hữu ích là một yếu tố quyết định mạnh mẽ của ý định sử dụng, và cảm nhận dễ sử dụng là một yếu tố quyết định quan trọng thứ yếu.
Khung lý thuyết TOE (Technology - Organisation – Environment)
Khung TOE được mô tả trong Cuốn sách Tornatzky và Fleischer's, Các quá trình đổi mới công nghệ (1990) bao gồm 03 nhóm yếu tố: nhóm nhân tố về Công nghệ (Technology - T), nhóm nhân tố về Tổ chức (Organisation - O) và nhóm nhân tố Môi trường (Environment - E). Cuốn sách mô tả toàn bộ quá trình đổi mới, trải dài từ quá trình phát triển các đổi mới của các kỹ sư và doanh nhân đến việc người dùng áp dụng và thực hiện các đổi mới đó trong bối cảnh của một doanh nghiệp. Khung TOE đại diện cho một phân đoạn của quá trình này - bối cảnh công ty ảnh hưởng như thế nào đến việc áp dụng và thực hiện các đổi mới. Khung TOE là một lý thuyết cấp tổ chức giải thích rằng 3 yếu tố khác nhau trong bối cảnh của một công ty ảnh hưởng đến quyết định áp dụng.
Nhóm yếu tố công nghệ:
Bao gồm tất cả các công nghệ có liên quan đến doanh nghiệp cả những công nghệ đã được sử dụng tại doanh nghiệp cũng như những công nghệ có sẵn trên thị trường nhưng hiện không được sử dụng. Các công nghệ hiện có của một doanh nghiệp rất quan trọng trong quá trình áp dụng vì chúng đặt ra một giới hạn rộng rãi về phạm vi và tốc độ thay đổi công nghệ mà một doanh nghiệp có thể thực hiện (Collins và cộng sự,1988). Những đổi mới đã tồn tại nhưng chưa được sử dụng tại công ty cũng ảnh hưởng đến sự đổi mới cả bằng cách xác định giới hạn của những gì có thể cũng như chỉ ra cho doanh nghiệp những cách thức mà công nghệ có thể cho phép họ phát triển và thích ứng. Nhóm những đổi mới tồn tại bên ngoài doanh nghiệp là những đổi mới gồm 3 loại, những đổi mới tạo ra những thay đổi gia tăng, tổng hợp hoặc không liên tục (Tushman and Nadler, 1986). Những cải tiến tạo ra sự thay đổi gia tăng giới thiệu các tính năng mới hoặc các phiên bản mới của công nghệ hiện có. Những đổi mới gia tăng này thể hiện ít rủi ro và thay đổi nhất đối với tổ chức áp dụng. Những đổi mới tạo ra sự thay đổi tổng hợp thể hiện điểm giữa của sự thay đổi vừa phải, nơi các ý tưởng hoặc công nghệ hiện có được kết hợp theo một cách mới lạ. Vì vậy, các công nghệ hiện có được kết hợp theo một cách mới để đổi mới. Những cải tiến đó tạo ra một sự thay đổi không liên tục được gọi là những đổi mới “cấp tiến” (Ettlie và cộng sự, 1984) thể hiện sự khác biệt đáng kể so với công nghệ hoặc quy trình hiện tại.
Nhóm yếu tố tổ chức:
Bao gồm các đặc điểm và nguồn lực của doanh nghiệp, cấu trúc liên kết giữa các nhân viên, quy trình giao tiếp trong nội bộ doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp và lượng nguồn lực còn thiếu. Các hành vi và quy trình giao tiếp của lãnh đạo cấp cao nhất bao gồm mô tả vai trò của đổi mới trong chiến lược tổng thể của tổ chức, chỉ ra tầm quan trọng của đổi mới đối với cấp dưới, các yếu tố được thảo luận thường xuyên nhất trong bối cảnh tổ chức ảnh hưởng đến sự đổi mới, đó là quy mô và quy mô. Các tổ chức lớn hơn thường có nhiều khả năng áp dụng các đổi mới hơn (Cyert và March, 1963; Kamien và Schwartz, 1982; Scherer, 1980), nhưng phần lớn nghiên cứu này đã bị chỉ trích vì quy mô thường là một đại lượng thô cho các yếu tố tổ chức cơ bản cụ thể hơn và có ý nghĩa hơn như sự sẵn có của các nguồn lực cụ thể (Kimberly, 1976). Do đó, mối liên hệ giữa quy mô và sự đổi mới không thể được thiết lập một cách chắc chắn và các nhà nghiên cứu tranh luận về việc sử dụng các thước đo cụ thể hơn của các biến tổ chức chứ không chỉ đơn giản là thước đo chung chung “quy mô”.
Nhóm yếu tố môi trường:
Bao gồm cấu trúc của ngành, sự hiện diện hay vắng mặt của các nhà cung cấp dịch vụ công nghệ và môi trường pháp lý. Cạnh tranh gay gắt trong ngành kích thích việc áp dụng đổi mới (Mansfield, 1968; Mansfield và cộng sự, 1977). Sự sẵn có của lao động có kỹ năng và sự sẵn có của các nhà tư vấn hoặc các nhà cung cấp dịch vụ công nghệ khác cũng thúc đẩy sự đổi mới (Rees và cộng sự, 1984). Cuối cùng, quy định của chính phủ có thể có tác động có lợi hoặc có hại đối với sự đổi mới. Khi các chính phủ đặt ra những ràng buộc mới đối với ngành thì về cơ bản, sự đổi mới bắt buộc đối với các doanh nghiệp đó.
Thảo luận về các yếu tố ảnh hưởng đến chấp nhận chuyển đổi số doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nghiên cứu mở rộng đã chứng minh rằng, mô hình TOE có khả năng ứng dụng rộng rãi và sở hữu sức mạnh giải thích trên một số bối cảnh công nghệ, công nghiệp. Mô hình TOE đã được sử dụng để giải thích việc áp dụng các hệ thống liên tổ chức (Grover, 1993; Mishra và cộng sự., 2007), kinh doanh điện tử (Zhu và cộng sự., 2003; Zhu và Kraemer, 2005; Zhu và cộng sự, 2006b; Zhu và cộng sự, 2004), trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) (Kuan và Chau, 2001), hệ thống mở (Châu và Tâm, 1997), hệ thống doanh nghiệp (Ramdani và cộng sự, 2009), và một loạt các ứng dụng kỹ thuật số chung (Thong, 1999). Mô hình TOE đã được sử dụng để giải thích việc áp dụng các đổi mới trong một loạt các ngành công nghiệp, bao gồm cả sản xuất (Mishra và cộng sự, 2007; Zhu và cộng sự, 2006b), chăm sóc sức khỏe (Lee và Shim, 2007), dịch vụ bán lẻ, bán buôn và tài chính (Zhu et al., 2006b). Hơn nữa, mô hình TOE đã được thử nghiệm trong bối cảnh châu Âu, châu Mỹ và châu Á, cũng như ở cả các nước phát triển và đang phát triển (Zhu và cộng sự, 2003; Zhu và Kraemer, 2005; Zhu và cộng sự, 2006b, 2004). Trong mỗi nghiên cứu, 3 yếu tố công nghệ, tổ chức và môi trường đã được chứng minh là có ảnh hưởng đến cách một doanh nghiệp xác định nhu cầu, tìm kiếm và áp dụng công nghệ mới.
Bằng chứng học thuật (Awa, Baridam và cộng sự, 2015; Châu và Tâm, 1997; Eze và cộng sự, 2013) cho thấy, khung TOE đã đạt được hiệu lực thực nghiệm trên các quy mô doanh nghiệp và củng cố nhiều câu hỏi về việc áp dụng chuyển đổi số, đặc biệt là hệ thống thông tin liên tổ chức đối với lĩnh vực công nghệ. Eze và cộng sự (2013), Châu và Tâm (1997) đã thông qua khung TOE trong nghiên cứu của họ và xác định các đặc điểm của đổi mới, công nghệ của tổ chức và môi trường bên ngoài là khá hữu ích trong việc giải thích và dự đoán việc áp dụng. Tương tự, Kuan và Chau (2001) xác nhận tính hữu ích của khung TOE trong các doanh nghiệp nhỏ khi họ đề xuất mô hình áp dụng thông tin kế toán dựa trên nhận thức với 06 yếu tố quyết định: cấu trúc chi phí, năng lực kỹ thuật, áp lực ngành, hỗ trợ chính phủ, tính hữu ích cảm nhận trực tiếp và tính hữu ích nhận thức gián tiếp.
Các nghiên cứu khác tìm thấy các yếu tố môi trường và tổ chức (Henriksen, 2006) các yếu tố quyết định có ý nghĩa thống kê nhiều hơn các yếu tố công nghệ ngay cả khi Thông (1999) đã phát hiện ra rằng việc áp dụng có mối quan hệ đáng kể với công nghệ và tổ chức. Hơn nữa, Zhu và cộng sự (2004) kết luận rằng, sự sẵn sàng về công nghệ là yếu tố chấp nhận mạnh nhất và các nguồn lực tài chính, phạm vi toàn cầu và môi trường pháp lý đóng góp đáng kể vào giá trị kinh doanh điện tử. Zhu và cộng sự (2003) nhận thấy, mức độ sẵn sàng cao hơn của người tiêu dùng, mức độ sẵn sàng của các đối tác thương mại và áp lực cạnh tranh là các yếu tố môi trường quan trọng.
Đối với nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến chấp nhận chuyển đổi số doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, với đặc thù và phạm vi đối tượng là doanh nghiệp nhỏ và vừa, các yếu tố trong khuôn khổ tổng quan các nghiên cứu trước được xem xét gồm: (1) Dựa trên Khung Lý thuyết TOE Tornatzky và Fleischer (1990) với 03 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến mức độ chuyển đổi số của doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nhóm yếu tố công nghệ (công nghệ tài chính, hạ tầng và dữ liệu, khả năng tương thích, lợi thế tương đối); Nhóm yếu tố tổ chức (chiến lược doanh nghiệp, nhân lực doanh nghiệp, kinh nghiệm về công nghệ thông tin, sự sẵng sàng của doanh nghiệp); Nhóm yếu tố môi trường: áp lực từ khách hàng, áp lực đối thủ cạnh tranh, các dịch vụ Logictics và hỗ trợ khách hàng, sự hỗ trợ từ Chính phủ). (2) Kết hợp với mô hình TAM2: với biến trung gian được tích hợp 02 yếu tố cảm nhận tính hữu ích và cảm nhận dễ sử dụng.
Tài liệu tham khảo:
- Ajzen, I., & Fishbein, M. (1977). Belief, attitude, intention, and behavior: An introduction to theory and research. Contemporary Sociology, 6(2), pp 244–245;
- Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational Behavior and Human Decision Processes, 50(2), pp 179–211;
- Davis, F. D. (1989). Perceived usefulness, perceived ease of use, and user acceptance of information technology. MIS Quarterly, 13(3),pp 319–340;
- Tornatzky, L., & Fleischer, M. (1990). The process of technology innovation. Lexington: Lexington Books.