Liên kết doanh nghiệp có Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn TP. Hà Nội

Đinh Vũ Minh - Nghiên cứu sinh Quản lý Kinh tế, Khoá 37, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng, phát triển kinh tế, tạo việc làm và góp phần thực hiện trách nhiệm xã hội đối với các quốc gia. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp này có trình độ công nghệ thấp, khó thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, năng lực cạnh tranh thấp. Trong khi đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có quy mô vốn lớn, công nghệ tốt, kỹ năng quản trị hiện đại sẽ lan toả công nghệ và liên kết hỗ trợ doanh nghiệp trong nước phát triển. Bài viết này nghiên cứu vai trò của việc xây dựng chuỗi liên kết giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa với các doanh nghiệp FDI, đánh giá thực trạng liên kết này trên địa bàn Hà Nội và kiến nghị các giải pháp tăng cường liên kết trong bối cảnh mới.

Vai trò của liên kết doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nhỏ và vừa

Liên kết doanh nghiệp (DN) xuất hiện sớm tại các quốc gia phát triển, bắt đầu từ thế kỷ XIX ở Hoa Kỳ và từ những năm 60 của thế kỷ XX tại châu Âu. Chính sách toàn cầu hóa đã làm cho sự liên kết giữa các DN trở nên mạnh mẽ hơn và vượt qua các rào cản quốc gia.

Liên kết giữa DN trong nước nói chung và DN nhỏ và vừa (DNNVV) nói riêng với các DN FDI là sự kết nối giữa các DN trong một chuỗi ngành hàng, hoặc trong lĩnh vực sản xuất bao gồm từ khâu sản xuất đến khâu phân phối sản phẩm. Hầu hết, việc liên kết giữa DNNVV trong nước với DN FDI thường diễn ra ở các nước đang phát triển, nơi DNNVV làm vệ tinh cung cấp các nguyên liệu đầu vào trong ngành công nghiệp hỗ trợ hoặc phân phối sản phẩm đầu ra cho các DN FDI.

Liên kết với các DN FDI mang lại khá nhiều lợi ích cho các DNNVV, góp phần khắc phục những điểm nghẽn về vốn, nhân lực và thị trường. Cụ thể:

- Mở rộng thị phần.

Liên kết kinh doanh hỗ trợ DN tăng thị phần bằng cách thu hút được nhiều khách hàng hơn khi có sản phẩm và dịch vụ đa dạng. Với sự liên kết kinh doanh theo cả chiều rộng và chiều sâu, các DN sẽ cung cấp nhiều hàng hoá hơn, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Liên kết trong sản xuất kinh doanh giúp DN đưa sản phẩm đến nhiều địa bàn hơn thông qua việc khai thác các chi nhánh và đại lý, tận dụng triệt để lợi thế về hệ thống phân phối chung. Tận dụng những lợi thế của liên kết kinh doanh, DN có thể giảm chi phí và tăng lợi nhuận, đồng thời khách hàng có thể được hưởng nhiều ưu đãi hơn.

- Nâng cao uy tín, đặc biệt là liên kết về tài chính.

Có nhiều yếu tố góp phần nâng cao uy tín của DNNVV, trong đó liên kết kinh doanh là một yếu tố có tính quyết định. Khi DN liên kết được với các đối tác có uy tín cao trên thị trường, trong ngành hàng đó, vô hình chung uy tín của DN cũng tăng lên và ngược lại.

- Nâng cao năng suất lao động.

Liên kết kinh doanh giữa DNNVV với các DN FDI khiến cho năng suất lao động được cải thiện đáng kể. Cải thiện năng suất lao động thông qua sự tiếp cận, ứng dụng, và lan toả khoa học công nghệ là một trong những biện pháp chủ yếu mà các quốc gia áp dụng. Bên cạnh đó, liên kết giúp các DN nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao khả năng quản lý, quản trị DN, từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động.

- Khắc phục những hạn chế, yếu kém, tăng khả năng cạnh tranh.

Các DNNVV có nhiều bất lợi về năng lực tài chính, nhân lực, năng lực quản trị và năng lực mở rộng thị trường. Hầu hết các DNNVV hoạt động nhỏ lẻ, thiếu liên kết. Việc liên kết tạo cơ hội bổ sung các hạn chế, phát huy thế mạnh sẽ tạo nên chuỗi giá trị trong từng ngành hàng, đưa ra những sản phẩm uy tín, chất lượng, từng bước chiếm lĩnh thị trường.

Thực trạng liên kết giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội

Hà Nội là một trong những điểm đến hấp dẫn với các nhà đầu tư đến từ nước ngoài. Việc mở rộng liên kết hợp tác đầu tư, liên kết thương mại luôn được Hà Nội quan tâm đẩy mạnh. Để hỗ trợ phát triển DN nói chung và DNNVV nói riêng, trên cơ sở chủ trương, đường lối, định hướng phát triển, các cơ chế, chính sách tăng cường liên kết giữa DN FDI với các DN trong nước, chính quyền TP. Hà Nội đã tích cực thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 5/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm và Nghị quyết số 10/2018/NQ-HĐND ngày 5/12/2018 của HĐND TP. Hà Nội về một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; xây dựng hạ tầng nông thôn; ban hành Kế hoạch hỗ trợ DNNVV, trong đó hỗ trợ DNNVV tiếp cận mặt bằng giá rẻ trong các khu, cụm công nghiệp để tăng cường liên kết trong cung ứng vật tư đầu vào cho các DN FDI đang đầu tư trên địa bàn Hà Nội.

Với những chính sách đó, việc thu hút FDI và xây dựng liên kết giữa DN FDI với DNNVV trên địa bàn Hà Nội đã thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Trong đó, thu hút FDI tăng mạnh về quy mô, cơ cấu hợp lý và chất lượng dòng vốn FDI đã tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng và tạo cơ sở để mở rộng liên kết phát triển DNNVV.

Sau 15 năm mở rộng địa giới hành chính, giai đoạn từ 2018 - 2023, Hà Nội luôn là địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút FDI. Tính đến năm 2023, Hà Nội thu hút mới trên 4.500 dự án FDI, với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 33 tỷ USD. Các DN FDI đã đóng góp trên 10% thu ngân sách, 11% số lao động trong các DN, 11% vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Riêng năm 2023, Hà Nội thu hút khoảng 2,7 tỷ USD vốn FDI. Dự kiến năm 2024, Hà Nội phấn đấu thu hút FDI đạt khoảng 3,15 tỷ USD. Trong đó, các dự án có sử dụng đất khoảng hơn 2,15 tỷ USD, các dự án thương mại, dịch vụ khoảng 1 tỷ USD. Năm 2025, Hà Nội phấn đấu thu hút FDI đạt khoảng 2,7 tỷ USD, trong đó các dự án có sử dụng đất khoảng hơn 1,5 tỷ USD, các dự án thương mại, dịch vụ đạt khoảng 1,2 tỷ USD.

DNNVV Hà Nội cũng đã chủ động tham gia liên kết sâu hơn vào chuỗi giá trị với các DN FDI. Liên kết giữa FDI với các DNNVV trên địa bàn Hà Nội chủ yếu bằng hình thức dọc (gồm liên kết ngược và liên kết xuôi). DNNVV Hà Nội tham gia cung ứng lao động kỹ thuật thấp cho các khâu có giá trị gia tăng thấp trong chuỗi giá trị sản phẩm của các DN FDI. So với liên kết ngược đó, liên kết xuôi (Hình thành các liên kết giữa DNNVV Hà Nội tham gia cung ứng nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất cho các DN FDI) ngày càng cao. Liên kết xuôi rõ nhất chính là trong ngành công nghiệp hỗ trợ. Ngành công nghiệp hỗ trợ của Hà Nội liên tục tăng cả về số lượng, quy mô, chất lượng, lĩnh vực, tập trung vào 3 nhóm ngành nghề: sản xuất linh kiện, phụ tùng; sản phẩm phục vụ ngành dệt may - da giày, sản phẩm cho công nghiệp công nghệ cao, tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp chế tạo. Ngoài ra, nhiều tập đoàn đa quốc gia đã chọn Hà Nội là địa điểm đầu tư cơ sở, nhà máy và hợp tác với các DN nhỏ và vừa trên địa bàn. Hà Nội hiện có khoảng 960 DN công nghiệp hỗ trợ, với trên 300 DN có hệ thống sản xuất và sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, đủ năng lực vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Tuy nhiên, mức độ liên kết còn khá lỏng lẻo, tỷ lệ DN Việt Nam mua đầu vào từ các DN trong nước là khá cao, chỉ có khoảng 3% DN nhập khẩu trực tiếp đầu vào từ nước ngoài. Khả năng cung ứng đầu vào cho các DN FDI của các DNNVV còn hạn chế, đặc biệt là cung ứng cho các tập đoàn lớn. Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng chưa tham gia được vào hệ sinh thái và chuỗi giá trị của các DN đầu chuỗi và DN nước ngoài. Khả năng đáp ứng nhu cầu cung ứng sản phẩm của các DN công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam vẫn còn thấp, và tỷ lệ nội địa hóa (sản xuất trong nước) ở Việt Nam vẫn thấp so với một số quốc gia khác như Trung Quốc và Ấn Độ.

Với tiềm năng và lợi thế, vị trí chiến lược của mình, Hà Nội đang vươn lên thành trung tâm tài chính, đổi mới sáng tạo, dịch vụ, sản xuất công nghệ cao trong khu vực Đông Nam Á, mở ra nhiều cơ hội hợp tác với các DN FDI Hà Nội đã đóng góp gần 10% giá trị kim ngạch thương mại cũng như kết quả thu hút vốn FDI toàn quốc, chiếm 25% tổng số các dự án và 10% tổng vốn FDI của riêng Hàn Quốc vào Việt Nam. Tuy nhiên, Hà Nội chưa tận dụng được hết lợi ích của dòng vốn FDI, kết nối giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước vẫn mờ nhạt, hiệu ứng lan toả hiệu ứng lan tỏa về công nghệ và năng suất lao động từ đối tác nước ngoài đến DN trong nước còn rất hạn chế. Sự thiếu liên kết giữa các DNNVV với DN FDI trên địa bàn Hà Nội, một mặt khiến cho mục tiêu thu hút FDI để lan toả công nghệ của chính quyền Hà Nội không thực hiện được, mặt khác, không tạo ra các cơ hội để gia tăng năng lực nội sinh, khắc phục những khó khăn, tồn tại của các DNNVV. Nguyên nhân của việc thiếu liên kết đến từ cả Chính quyền (thiếu chính sách để hỗ trợ về tài chính, công nghệ cho các DN hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ có hàm lượng công nghệ, kỹ thuật phức tạp); từ phía các DN FDI chưa thực sự sẵn sàng đặt niềm tin vào sự liên kết hiệu quả của các DN nội địa; và từ phía các DNNVV trên địa bàn TP. Hà Nội.

Giải pháp thúc đẩy liên kết doanh nghiệp

Để thúc đẩy liên kết giữa DN FDI với các DNNVN tại Hà Nội, cần triển khai các nhóm giải pháp đồng bộ sau:

Thứ nhất, thiết lập liên kết giữa các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Hồng. Việc tạo ra sự kết nối cùng là một trong những giải pháp để thúc đẩy các DNNVV tham gia mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị giá tăng, bằng cách tăng cường sự kết nối giữa các ngành, vùng và nâng cao lợi thế so sánh của Hà Nội và từng địa phương trong vùng, góp phần cung ứng đa dạng các sản phẩm, nguyên liệu đầu vào đáp ứng nhu cầu của DN FDI. Muốn vậy, Hà Nội cần đẩy mạnh phát triển các vùng sản xuất, các khu công nghiệp, khu kinh tế để chủ động hơn nguồn cung ứng nguyên liệu, tạo thành chuỗi liên kết khép kín.

Thứ hai, hoàn thiện cơ chế chính sách thu hút FDI, tăng cường liên kết trong đầu tư giữa FDI với các DNNVV Hà Nội. Với xu thế chuyển dịch dòng vốn FDI từ thâm dụng lao động sang thâm dụng khoa học công nghệ, quy mô, cơ cấu DN FDI cũng thay đổi phù hợp với xu thế đó. Vì vậy, Hà Nội cần hoàn thiện chính sách để thu hút dòng vốn này, có chiến lược để thúc đẩy các DNNVV bắt kịp với yêu cầu của các DN FDI.

Đồng thời, cần tăng cường liên kết giữa các DN FDI với các DN trong nước, tiến hành thực hiện các giải pháp điều chỉnh, hoàn thiện nội dung chính sách FDI theo hướng thúc đẩy tác động lan tỏa đến các DN trong nước như đẩy mạnh các chính sách chuyển giao công nghệ giữa khu vực trong nước và khu vực FDI, đào tạo lao động, qui định tỷ lệ nội địa hóa đối với từng ngành. Cùng với đó, có giải pháp đột phá để cải thiện và thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ giữa các DN trong nước và DN FDI, thông qua cung ứng dịch vụ tư vấn công nghệ, vận hành quỹ phát triển công nghệ, sử dụng các chính sách về thuế, tài chính để khuyến khích đầu tư công nghệ cao… Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện cho các DN trong nước tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng ngân hàng để DN chủ động, tự tin tham gia vào chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu; tăng cường hỗ trợ của Nhà nước tại thời điểm ban đầu cho một số DN có tiềm năng tham gia vào chuỗi cung ứng, xác định các đối tượng tham gia vào các chương trình liên kết, kết nối thông tin…

Thứ ba, đào tạo nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của các DN FDI, đồng thời có cơ chế hỗ trợ về thông tin để các DNNVV tiếp cận, nắm bắt nhu cầu nhân lực của các DN FDI. Xây dựng cơ sở dữ liệu và thường xuyên cập nhật thông tin về các DN FDI, các DN cung ứng nội địa và danh sách lao động kỹ thuật cao để cung ứng cho DN tuyển chọn.

Thứ tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNNVV để đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn của các DN FDI. Nâng cao chất lượng của các DN trong nước, phát triển công nghệ để từ đó đẩy mạnh mối liên kết, hợp tác giữa khu vực trong nước và khu vực FDI. Hiệp hội DNNVV Hà Nội cần có các biện pháp truyền thông để đồng hành cùng DNNVV. DN trong nước cần ứng dụng khoa học, công nghệ mới, tận dụng thành quả của Cách mạng công nghiệp 4.0, cải tiến quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và năng lực quản trị DN.

Tài liệu tham khảo:

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật;
  2. OECD (2021), Báo cáo chính sách doanh nghiệp nhỏ vừa vừa và khởi nghiệp tại Việt Nam - Tổng quan đánh giá và kiến nghị chính sách;
  3. Nguyễn Minh Thành (2019), Mô hình đánh giá tác động của Hỗ trợ chính phủ tới mức độ đóng góp ngân sách nhà nước từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa;
  4. WB (2021), Small and Medium Enterprises (SMEs) Finance Improving SMEs’ access to finance and finding innovative solutions to unlock sources of capital.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 6/2024