Nâng cao hiệu quả quản trị tài chính doanh nghiệp trong bối cảnh đại dịch Covid-19
Bài viết phân tích tác động của dịch bệnh Covid-19 và thực trạng quản trị tài chính doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản trị tài chính doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Đại dịch Covid-19 bùng phát và lan rộng trên khắp toàn cầu, đã tác động mạnh mẽ và làm suy thoái nền kinh tế thế giới. Không ngoại lệ, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu nhiều tổn thất nặng nề trên nhiều phương diện, nhất là khu vực doanh nghiệp Việt Nam. Bài viết phân tích tác động của dịch bệnh Covid-19 và thực trạng quản trị tài chính doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản trị tài chính doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Mục tiêu và nội dung quản trị tài chính doanh nghiệp
Hệ thống tài chính trong doanh nghiệp được ví như hệ thống tuần hoàn máu trong cơ thể nuôi tất cả các bộ phận. Tài chính có thể dưới dạng tiền, vật tư, nguyên liệu, tài sản phát sinh lúc hình thành nguồn vốn hoặc trong quá trình hoạt động như các khoản thu, phải trả. Quản trị tài chính doanh nghiệp là việc lựa chọn các quyết định tài chính, tổ chức thực hiện các quyết định đó nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp.
Quản trị tài chính cũng được hiểu là việc tổng hợp và nghiên cứu các mối quan hệ tài chính có thể phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Nghĩa là, quản trị tài chính liên quan đến quản trị dòng vốn của doanh nghiệp, bao gồm các tài sản, các nguồn vốn hiện có, các kênh huy động vốn, quản trị tiền mặt và các mối quan hệ tài chính phát sinh như khoản phải thu, khoản phải trả, hàng tồn kho… Trên cơ sở đó, quản trị tài chính đề cập đến việc lên kế hoạch, xây dựng chiến lược tài chính, tổ chức và thực hiện chỉ đạo, kiểm soát các hoạt động về tài chính của doanh nghiệp.
Trên góc độ tạo ra giá trị, quản trị tài chính hướng đến mục tiêu gia tăng giá trị tài sản cho chủ sở hữu doanh nghiệp và làm gia tăng giá trị doanh nghiệp. Mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận được xem xét và cụ thể hoá bằng các chỉ tiêu sau:
- Tối đa hoá chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế, tuy nhiên, mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận sau thuế chưa hẳn gia tăng được giá trị cho cổ đông. Trong nhiều trường hợp, lợi nhuận vẫn gia tăng nhưng lợi nhuận trên vốn cổ phần giảm vì số lượng cổ phần phát hành tăng, do đó, chỉ tiêu tối đa hoá lợi nhuận cần được bổ sung bằng chỉ tiêu tối đa hoá lợi nhuận trên vốn cổ phần.
- Tối đa hoá lợi nhuận trên cổ phần (EPS): Chỉ tiêu này được xem xét bổ sung những hạn chế của chỉ tiêu tối đa hoá lợi nhuận sau thuế, song chỉ tiêu này vẫn còn có những hạn chế nhất định, cụ thể: (1) Tối đa hoá EPS không xét đến yếu tố thời giá tiền tệ và độ dài của lợi nhuận kỳ vọng; (2) Tối đa hoá EPS cũng chưa xem xét đến yếu tố rủi ro; (3) Tối đa hoá EPS không cho phép sử dụng chính sách cổ tức để tác động đến giá trị cổ phiếu trên thị trường.
- Tối đa hoá thị giá cổ phiếu và tối đa hóa giá trị doanh nghiệp được xem như là mục tiêu thích hợp nhất mà các nhà quản trị tài chính đều hướng đến, vì mục tiêu này quan tâm đến các yếu tố như giá trị thời gian của tiền, rủi ro tài chính trong ngắn hạn và dài hạn, chính sách cổ tức và những yếu tố khác có ảnh hưởng đến giá cổ phiếu.
Theo đó, quản trị tài chính doanh nghiệp bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
(i) Quản trị tài sản cố định (TSCĐ) bao gồm TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình. Trong đó, có nội dung quản trị hiện vật, quản trị giá trị, tính và phân bổ khấu hao TSCĐ, sửa chữa, nâng cấp và thanh lý TSCĐ.
(ii) Quản trị tài sản lưu động (TSLĐ) và vốn lưu động: Bao gồm việc nghiên cứu khả năng chuyển đổi của TSLĐ, cơ cấu và phân loại TSLĐ, quản trị hàng hóa tồn kho, lập và sử dụng quỹ dự phòng giảm giá hàng tồn kho, cách thức tổ chức chu chuyển vốn lưu động, khả năng phân tích vòng quay và hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
(iii) Quản trị vốn bằng tiền bao gồm việc lập kế hoạch tiền mặt (tiền VNĐ và ngoại tệ), kế hoạch vay, trả nợ, việc tổ chức quản lý và kiểm soát quỹ tiền mặt tại hội sở chính và các chi nhánh, tổ chức việc giao dịch, kết nối ngân hàng trong và ngoài nước, chế độ đảm bảo an toàn tiền khi giao dịch, nhất là giao dịch điện tử.
(iv) Quản trị tín dụng thương mại và quá trình tham gia thị trường tài chính bao gồm các phương thức bán hàng, thu tiền, sử dụng các công cụ tín dụng thương mại, chính sách vay nợ và thu nợ, vấn đề bao thanh toán và mua bán thương mại, việc sử dụng và quản trị các công cụ tài chính.
(v) Quản trị nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm quản trị các nguồn vốn tự có, nguồn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại, nguồn cổ phiếu và trái phiếu công ty, nguồn từ lợi nhuận dùng để tái đầu tư.
(vi) Quản trị quyết định đầu tư, phân tích tính chi phí đầu tư là cách thức tính toán toàn diện tiềm lực vốn, khả năng đầu tư, nhất là đầu tư xây dựng cơ bản quy mô lớn.
(vii) Quản trị rủi ro tài chính kinh doanh, nhận diện và xử lý các rủi ro tiềm tàng trong sản xuất, kinh doanh, nhằm giảm thiểu thiệt hại và tài trợ rủi ro.
(viii) Phân tích tài chính là công cụ hữu hiệu trong giải pháp quản trị tài chính. Việc phân tích, giúp nhà quản trị nhìn nhận đúng thực trạng tài chính, những yếu tố tích cực và tiêu cực, thông qua những tính toán và phân tích khoa học, nhằm nhận diện nguyên nhân và tìm các giải pháp phát huy ưu điểm, hạn chế sai lầm, để công tác tài chính được đảm bảo độ an toàn, sự phát triển liên tục và bền vững.
(ix) Tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ, gia tăng cảnh báo và ngăn chặn rủi ro, giảm thiểu tác hại của rủi ro, hướng công tác tài chính đạt mục tiêu hiệu quả và sự tăng trưởng bền vững.
(x) Tăng cường phân cấp quyền và trách nhiệm, đề cao trách nhiệm vật chất, sử dụng có hiệu quả đòn bẩy kinh tế. Duy trì, bồi bổ động lực lành mạnh song song với việc gia tăng thẩm quyền, trách nhiệm cho từng bộ phận, từng thành viên, tạo sự đồng thuận trong quản trị tài chính và nâng cao hiệu năng quản trị của toàn bộ hệ thống.
Tác động của dịch bệnh Covid-19 đến doanh nghiệp Việt Nam
Khởi nguồn từ Vũ Hán (Trung Quốc) vào cuối năm 2019, đến nay, đại dịch Covid-19 đã bùng phát ở 215 quốc gia. Mỗi ngày, thế giới có hàng trăm nghìn ca mắc mới, hàng nghìn người tử vong và con số này chưa có dấu hiệu chững lại, thậm chí lây lan nhanh tại một số quốc gia sau khi nới lỏng các biện pháp giãn cách xã hội. Đại dịch Covid-19 đã tác động toàn diện và sâu rộng, khiến nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái. Không ngoại lệ, Việt Nam - một quốc gia đang phát triển cũng bị tác động và tổn thất nặng nề trên nhiều phương diện, nhất là khu vực doanh nghiệp.
Khảo sát gần 10.200 doanh nghiệp trên toàn quốc, "Báo cáo tác động của dịch bệnh Covid-19 đối với doanh nghiệp Việt Nam: Một số phát hiện chính từ điều tra doanh nghiệp 2020" do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (WB) thực hiện đã đưa ra những góc nhìn cụ thể về ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 tới toàn nền kinh tế và những cách thức ứng phó của doanh nghiệp Việt Nam. Theo Báo cáo, đại dịch Covid-19 tác động tiêu cực đến doanh nghiệp tại Việt Nam. Trong đó, 87,2% doanh nghiệp cho biết, chịu ảnh hưởng ở mức “phần lớn” hoặc “hoàn toàn tiêu cực”. Chỉ 11% doanh nghiệp cho rằng, họ “không bị ảnh hưởng gì” và gần 2% ghi nhận tác động “hoàn toàn tích cực” hoặc “phần lớn tích cực”.
Cả khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đều bị ảnh hưởng nặng nề. Trong số các nhóm doanh nghiệp, đối tượng chịu ảnh hưởng tiêu cực nhiều hơn cả là các doanh nghiệp mới hoạt động dưới 3 năm và các doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ. Tỷ lệ doanh nghiệp chịu ảnh hưởng ở mức phần lớn hoặc hoàn toàn tiêu cực có xu hướng giảm khi số năm hoạt động của doanh nghiệp gia tăng. Song vẫn có tới 84% doanh nghiệp tư nhân và 85% doanh nghiệp FDI có trên 20 năm hoạt động chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 ở mức phần lớn hoặc hoàn toàn tiêu cực.
Mức độ ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 đối với các doanh nghiệp FDI lớn nhất ở nhóm doanh nghiệp quy mô nhỏ, với 89,3% cho biết chịu ảnh hưởng ở mức phần lớn hoặc hoàn toàn tiêu cực. Doanh nghiệp FDI ở quy mô lớn là nhóm chịu ảnh hưởng tiêu cực lớn thứ 2, với con số 88%. Tỷ lệ chịu ảnh hưởng tiêu cực của nhóm quy mô vừa và quy mô siêu nhỏ thấp hơn một chút, lần lượt ở mức 87,3% và 87,2%. Nhóm doanh nghiệp tư nhân quy mô siêu nhỏ có tỷ lệ cho biết chịu ảnh hưởng ở mức phần lớn, hoàn toàn tiêu cực là cao nhất, với con số 87,7%. Các nhóm doanh nghiệp còn lại có tỷ lệ chịu ảnh hưởng tiêu cực thấp hơn, ở mức 86,1%.
Số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê cho thấy, đại dịch Covid-19 đã tác động nghiêm trọng tới nền kinh tế, cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam. Làn sóng phá sản doanh nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ, con số doanh nghiệp Việt Nam giải thể, tạm ngừng hoạt động đạt mức kỷ lục trong nhiều năm trở lại đây (Hình 1).
Theo Hình 1, số doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn dừng hoạt trong năm 2018-2019 đã được ghi nhận ở mức khá cao (gần 90 nghìn doanh nghiệp); năm 2020 con số này đã vượt trên 100 nghìn doanh nghiệp. So sánh với những năm đầu thập kỷ, số doanh nghiệp giải thể hoặc tạm ngừng hoạt động trong năm 2020 (101,7 nghìn doanh nghiệp) cao gần gấp đôi so với năm 2013 (60,737 nghìn doanh nghiệp).
Theo điều tra của VCCI và WB, lĩnh vực chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất bởi đại dịch Covid-19 là may mặc (97%), thông tin truyền thông (96%), sản xuất thiết bị điện (94%), sản xuất xe có động cơ (93%)… Kết quả khảo sát 1.564 doanh nghiệp FDI tại Việt Nam cũng ghi nhận 87,9% chịu tác động tiêu cực từ dịch bệnh, 11,4% không ảnh hưởng gì, chỉ có 0,8% vẫn kinh doanh tốt. Doanh nghiệp FDI trong một số ngành có tỷ lệ chịu ảnh hưởng tiêu cực cao, bao gồm bất động sản (100%), thông tin truyền thông (97%), nông nghiệp/thuỷ sản (95%). 22% doanh nghiệp FDI cho biết phải sa thải lao động do tình hình kinh doanh suy giảm. Số lao động buộc phải nghỉ việc xấp xỉ 30% tổng số lao động làm việc tại doanh nghiệp.
Điều tra của VCCI và WB cũng ghi nhận, đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng tới việc tiếp cận khách hàng, tiếp đến là bị ảnh hưởng về dòng tiền và nhân công của doanh nghiệp. Chuỗi cung ứng của nhiều doanh nghiệp đã bị gián đoạn. Một số doanh nghiệp còn bị ảnh hưởng tới các vấn đề khác, từ giảm đơn hàng, giảm sản lượng, phải trì hoãn, giãn tiến độ đầu tư thậm chí huỷ dự án đang hoặc sẽ thực hiện. Các doanh nghiệp cũng bị phát sinh thêm chi phí phòng ngừa dịch bệnh Covid-19.
Không ít doanh nghiệp gặp khó khăn do chuyên gia nước ngoài không thể sang Việt Nam làm việc. Nhiều doanh nghiệp bị gián đoạn, ngưng trệ hoạt động, thậm chí dừng hoạt động do tình hình dịch và đứng trước bờ vực phá sản bởi thị trường giảm cầu đột ngột, dẫn tới giảm doanh thu cũng như vấp phải những rủi ro về thu hồi nợ, mất khả năng thanh toán…
Khảo sát của Tổng cục Thống kê trong năm 2020 cho thấy, vấn để lớn nhất mà các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp phải đó là khả năng cạnh tranh cao của hàng hóa trong nước. Có tới 53,6% doanh nghiệp khi được hỏi trả lời rằng, hàng hóa của họ bị cạnh tranh rất gắt gao ngay tại thị trường nội địa.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, hàng hóa của các nước trên thế giới vào Việt Nam dễ dàng hơn. Chính vì vậy, hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh rất khốc liệt ngay trong thị trường nội địa. Bên cạnh đó, nhu cầu thấp về hàng hóa trong nước cũng là một trở ngại lớn của doanh nghiệp. 49,8% doanh nghiệp cho rằng, nhu cầu thị trường trong nước thấp so với khả năng sản xuất hàng hóa của họ.
Có nhiều nguyên nhân mà các doanh nghiệp cho là trở ngại, mặc dù chiếm tỷ trọng không lớn; 33,4% số doanh nghiệp cho rằng gặp khó khăn về tài chính; 27,6% số doanh nghiệp cho rằng nhu cầu thị trường quốc tế thấp; 25,6% số doanh nghiệp cho rằng lãi suất vay vốn cao; 25,3% số doanh nghiệp cho rằng không tuyển được lao động theo yêu cầu; 24,7% số doanh nghiệp cho rằng thiếu nguyên, nhiên, vật liệu; 20,7% số doanh nghiệp cho rằng thiết bị công nghệ lạc hậu; 19,9% số doanh nghiệp cho rằng tính cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu cao; chỉ có 6,9% doanh nghiệp cho rằng không có khả năng tiếp cận nguồn vốn vay.
Thống kê của WB trong năm 2020 cũng cho thấy, có gần 30% doanh nghiệp Việt Nam áp dụng giải pháp cắt giảm lao động; trên 21% doanh nghiệp cho lao động nghỉ không lương và gần 19% doanh nghiệp giảm lương lao động. Bên cạnh việc giảm số lượng lao động, nhiều doanh nghiệp lại sử dụng biện pháp giảm giờ làm với gần 25% số lượng doanh nghiệp cắt giảm giờ làm việc. Số giờ làm việc trung bình của tất cả các doanh nghiệp tại Việt Nam trong tháng 9-10/2020, giảm 6,7% so với cùng kỳ năm 2019.
Tình hình quản trị tài chính doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
Về tình hình sản xuất kinh doanh chung: Theo Hình 2, sự tăng giảm của các chỉ số đã cho thấy thực tế của doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 2013-2020.
Hình 2 cho thấy, thời gian đầu khi đại dịch bùng phát, hầu hết các doanh nghiệp đều gặp phải cú sốc lớn, không kịp trở tay, tổng doanh thu và lượng đặt hàng mới giảm mạnh, tổng doanh thu giảm 71% và tổng đơn đặt hàng mới giảm 76%. Trong suốt quý I/2020 và quý II/2020, tất cả các chỉ số đều gần như “chạm đáy”. Tuy nhiên, quý II/2020 và quý IV/2020, các chỉ số thành phần có sự phục hồi dần và hầu hết chuyển từ các mức giảm thành tăng vào cuối năm 2020. Kết quả này là một sự nỗ lực mạnh mẽ của các doanh nghiệp, khi tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến ngày càng phức tạp.
Về quản trị dòng tiền của doanh nghiệp: Dòng tiền được coi như là dòng máu nuôi sống doanh nghiệp, do vậy quản trị dòng tiền là một trong những nội dung vô cùng quan trọng trong quản trị tài chính của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy không phải doanh nghiệp Việt Nam nào cũng chú trọng vào quản lý dòng tiền mà chỉ tập trung vào chăm chút chỉ tiêu lợi nhuận. Một trong những trường hợp phổ biến ở các doanh nghiệp Việt Nam đó là các doanh nghiệp tăng trưởng rất nhanh nhưng lợi nhuận lại vượt xa số tiền mặt thực tế nhận được. Loại tình huống này làm cho các doanh nghiệp dễ bị cạn kiệt về tiền mặt.
Theo điều tra của VCCI, trong quý I/2020, có tới 60% số doanh nghiệp thuộc nhóm khảo sát rơi vào tình trạng thiếu vốn, đứt dòng tiền và 40% doanh nghiệp thì rơi vào tình trạng thiếu nguồn cung nguyên liệu.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh tình hình dịch bệnh Covid-19 lan nhanh và ngày càng diễn biến phức tạp đã khiến cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bị gián đoạn. Dòng tiền thu từ bán hàng, cung cấp dịch vụ không có trong khi các nhu cầu thanh toán chi phí hoạt động, chi phí lãi vay vẫn liên tục phát sinh. Như vậy, cùng với việc các doanh nghiệp không xây dựng kế hoạch quản trị dòng tiền và quy trình quản lý tài chính nội bộ từ trước sẽ khiến cho việc kiểm soát dòng tiền của doanh nghiệp đã lỏng lẻo nay còn gặp nhiều khó khăn hơn.
Về khả năng tiếp cận nguồn tài trợ: Khi thiếu hụt tiền mặt, các doanh nghiệp sẽ tìm đến kênh huy động vốn trên thị trường tài chính. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng gặp không ít trở ngại khi tiếp cận kênh huy động này.
Trong báo cáo tổng hợp vào đầu tháng 5/2020 của Ngân hàng Nhà nước, tín dụng của toàn ngành Ngân hàng tăng 1,2% tuy nhiên khu vực doanh nghiệp lại giảm 0,8%. Điều này cho thấy, các doanh nghiệp thiếu hụt lớn về nguồn vốn. Mặc dù, Chính phủ đã tung ra nhiều gói cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và các doanh nghiệp cũng có nhu cầu lớn tiếp cận nguồn tài trợ, nhưng cung và cầu về vốn vẫn chưa gặp nhau.
Nguyên nhân chủ yếu do các doanh nghiệp bị thiếu tài sản đảm bảo. Theo khảo sát của VCCI, hiện có tới 90% các doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu tài sản đảm bảo nên khi rơi vào khó khăn lại càng khó tiếp cận nguồn vốn.
Một nguyên nhân nữa khiến cho việc tiếp cận vốn tín dụng của các doanh nghiệp khó khăn là các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu minh bạch về thông tin. Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thiếu sự đồng nhất, không được kiểm toán và độ tin cậy không cao.
Các doanh nghiệp cũng không có nhiều kinh nghiệm trong việc lập báo cáo kinh doanh, quản trị dòng tiền. Điều này khiến việc thu thập thông tin về các doanh nghiệp rất khó khăn và tốn kém. Vì lẽ đó, các tổ chức tài chính khó có thể cho doanh nghiệp vay, bởi những rủi ro tín dụng mà họ có thể gặp phải.
Ngoài kênh tiếp cận nguồn tài trợ thông qua các tổ chức tín dụng, trong năm 2020, kênh huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp có bước ngoặt phát triển đáng kể. Bộ Tài chính và Chính phủ đã có nhiều nỗ lực đổi mới, hoàn thiện khung khổ chính sách, từng bước được điều hành cân bằng hơn với thị trường tín dụng ngân hàng, giúp giảm áp lực huy động vốn từ kênh tín dụng.
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển toàn phù hợp với chủ trương, định hướng phát triển thị trường tài chính và thị trường vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của khu vực tư nhân với vai trò là tổ chức phát hành và nhà đầu tư. Theo số liệu của Hiệp hội trái phiếu, tính đến hết tháng 11/2020, đã có 2.311 đợt đăng ký phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, trong đó có 1.970 đợt phát hành thành công với tổng giá trị phát hành thành công đạt 348,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 68,5% tổng giá trị đăng ký. Quy mô thị trường năm 2020 đạt xấp xỉ 13% GDP cả nước.
Về công tác quản trị hàng tồn kho: Công tác quản trị hàng tồn kho của doanh nghiệp cũng gặp nhiều thách thức do bị thiếu hụt nghiêm trọng nguồn cung ứng nguyên liệu phục vụ cho sản xuất. Rất nhiều ngành sản xuất trong nước bị phụ thuộc nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu từ Trung Quốc, trong khi vận chuyển hàng hóa từ thị trường này gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh.
Ví dụ như ngành Dệt may, Trung Quốc đóng vai trò cung cấp nguồn đầu vào rất lớn, chiếm tới 60% giá trị vải, hơn 55% giá trị xơ sợi và khoảng 45% giá trị phụ liệu. Hay như ngành công nghiệp sản xuất ô tô cũng bị gián đoạn sản xuất, do phần lớn các phụ tùng linh kiện sản xuất ô tô của các doanh nghiệp này cũng đến từ Trung Quốc và Hàn Quốc – hai địa điểm bùng phát dịch bệnh Covid-19 mạnh mẽ nhất khu vực châu Á.
Về trình độ của Ban lãnh đạo doanh nghiệp nói chung và Giám đốc tài chính doanh nghiệp nói riêng: Tại Việt Nam, cơ cấu doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chiếm tuyệt đại đa số lên tới 95-96% với một đặc thù là thiếu tính cạnh tranh, thiếu liên kết, lệ thuộc nhiều vào các chính sách ban hành của Nhà nước, thiếu tinh thần đổi mới sáng tạo. Chiến lược hoạt động của nhóm doanh nghiệp này gần như không có, hoặc rất ngắn hạn, động cơ chộp giật do vậy các doanh nghiệp này rất khó trưởng thành.
Có thể dễ dàng nhận thấy, với quy mô hoạt động nhỏ, hầu hết các doanh nghiệp đều đang hoạt động với một mô hình quản trị kém bài bản, các bộ phận quản trị trong doanh nghiệp không có sự tách biệt rõ ràng, không chuyên môn hóa và đúng chức năng, dẫn đến từng khâu trong doanh nghiệp đều không được làm tốt. Bộ phận quản lý của doanh nghiệp thường do một vai Tổng giám đốc thực hiện toàn bộ dẫn đến thiếu tính chuyên nghiệp.
Tại các doanh nghiệp siêu nhỏ, công tác quản trị chủ yếu mang tính tự phát, không có tính hệ thống, không được đào tạo chính quy, không phân chia chuyên môn cho các bộ phận chức năng, chủ yếu mang nặng yếu tố “kinh nghiệm”. Với một tổ chức, khi bộ phận đứng đầu chưa thực sự làm tốt, thì việc cả hệ thống dễ dàng bị phá hỏng là điều khó tránh khỏi. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự yếu và kém của các doanh nghiệp của Việt Nam.
Khảo sát số liệu do VCCI được thực hiện trong năm 2010 và năm 2020 thấy rằng, một số hạn chế cố hữu của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp trong 10 năm qua vẫn chưa được cải thiện nhiều, nhất là việc thiếu sự hợp tác/liên kết trong kinh doanh và thiếu chiến lược, thiếu tầm xa, bài bản trong kinh doanh. Đây là những hạn chế khiến các doanh nghiệp Việt Nam khó có cơ hội để vươn lên và tham gia sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, trong kết quả khảo sát của VCCI cho thấy, sự chuyên nghiệp của đội ngũ lãnh đạo đã được cải thiện vượt bậc, hạn chế này chỉ còn được xếp thứ 11 năm 2020 trong số các hạn chế chính (thay vì xếp thứ hạng 1 năm 2010).
Giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị tài chính doanh nghiệp trước bối cảnh mới
Định hướng và phản ứng của Chính phủ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp thích ứng với bối cảnh mới
Trước những khó khăn, thách thức mà các doanh nghiệp đang phải đối diện, Chính phủ Việt Nam đã kịp thời triển khai hàng loạt các biện pháp hỗ trợ nhằm giúp các doanh nghiệp có thể trụ vững và phục hồi phát triển sản xuất, kinh doanh. Các chính sách của Chính phủ đã tạo cơ sở, nền tảng để các doanh nghiệp áp dụng và đưa ra các giải pháp tài chính phù hợp. Cụ thể:
Về chính sách thuế: Chính phủ đã ban hành Nghị định số 114/2020/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện quy định tại Nghị quyết số 116/2020/QH14 của Quốc hội về giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm tài chính 2020. Theo đó, thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2020 được giảm 30% đối với những trường hợp doanh nghiệp có tổng doanh thu năm 2020 không vượt quá 200 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, trên cơ sở đề xuất của Bộ Tài chính, Nghị định số 41/2020/NĐ-CP quy định gia hạn thời gian nộp các khoản thuế như sau: Thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất cho các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp từ đại dịch Covid-19 với thời gian gia hạn lên tới 5 tháng.
Đến đầu năm 2021, khi tình hình dịch bệnh ở Việt Nam và trên toàn thế giới vẫn còn diễn biến phức tạp, Bộ Tài chính tiếp tục đề xuất gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất để hỗ trợ cho các doanh nghiệp.
Riêng với các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô-tô trong nước, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109/2020/NĐ-CP để gia hạn thuế tiêu thụ đặc biệt với các sản phẩm ô tô này trong các kỳ tính thuế từ tháng 3-10 năm 2020.
Không chỉ dừng lại ở đó, Bộ Tài chính tích cực phối hợp cùng các ngành để rà soát và cắt giảm một loạt các khoản phí và lệ phí cho các doanh nghiệp như: Phí môn bài trong năm đầu tiên đối với các doanh nghiệp thành lập mới; Phí cấp sửa đổi, bổ sung giấy phép hoạt động bưu chính và giảm 67% mức phí công bố thông tin doanh nghiệp.
Về chính sách tín dụng: Xác định tín dụng sẽ là chiếc phao cứu sinh của doanh nghiệp trong thời kỳ khó khăn này, Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường chỉ đạo và thực hiện các chính sách hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp. Nổi bật như: Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/03/2020 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ, qua đó hỗ trợ các khách hàng tiếp tục vay vốn mới phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Thông tư này cũng định hướng các tổ chức tín dụng miễn giảm lãi và phí cho các khoản vay.
Để tạo cơ sở cho các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng chủ động cân đối khả năng tài chính để áp dụng lãi suất cho vay hợp lý, bảo đảm an toàn tài chính; Tiết giảm chi phí hoạt động để tập trung nguồn lực giảm mạnh lãi suất cho vay đối với dư nợ hiện hữu và các khoản cho vay mới, hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp vượt qua khủng hoảng. Cụ thể, giảm 0,85%-1,0%/năm trần lãi suất tiền gửi các kỳ hạn dưới 6 tháng; Giảm 1,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn Việt Nam đồng đối với các lĩnh vực ưu tiên.
Việc nhanh chóng đưa ra các chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với đại dịch Covid-19 đã thu được nhiều kết quả quan trọng, tuy nhiên những kỳ vọng mà các nhà hoạch định chính sách đặt ra chưa nhiều. Dù gói giảm thuế, gia hạn thời hạn nộp thuế và giảm tiền thuê đất ước tính có thể mang lại lợi ích cho gần 700.000 doanh nghiệp trên khắp cả nước, nhưng thực tế cơ quan thuế hiện nay mới chỉ tiếp nhận khoảng 113,8 nghìn giấy đề nghị gia hạn thuế và tiền thuê đất của doanh nghiệp, chiếm 15% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động của nền kinh tế.
Số tiền thuế và tiền thuê đất được gia hạn là 47,56 nghìn tỷ đồng, bằng 26,4% gói chính sách tài khoá. Gói tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp bị tác động bởi dịch bệnh Covid-19 lần 1 với giá trị ước tính hơn 250 nghìn tỷ đồng, nhưng với điều kiện hỗ trợ còn phức tạp, thiếu khả thi và chưa sát thực tế với khu vực doanh nghiệp, nên chỉ có khoảng 20% số doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu của gói hỗ trợ này. Thực tế này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách, cũng như bản thân các doanh nghiệp cần ngồi lại xem xét và tìm được con đường để các gói hỗ trợ và doanh nghiệp có thể gặp được nhau.
Về chính sách phát hành trái phiếu doanh nghiệp: Sự phục hồi của các doanh nghiệp Việt Nam nửa cuối năm 2020 dẫn đến nhu cầu về vốn tăng theo. Khi việc tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu từ ngân hàng thương mại còn gặp nhiều vướng mắc, thì các doanh nghiệp Việt Nam tìm đến kênh phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của thị trường đã bộc lộ những rủi ro tiềm ẩn của thị trường, đe dọa sự phát triển chung của nền kinh tế. Sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân không có khả năng tiếp cận thông tin của doanh nghiệp một cách đầy đủ và hạn chế về năng lực đánh giá rủi ro của doanh nghiệp phát hành. Sự vi phạm của doanh nghiệp khi phát hành trái phiếu với giá trị giao dịch gấp nhiều lần so với vốn chủ sở hữu, liên tục huy động thông qua chia nhỏ thành nhiều đợt phát hành và tăng mức lãi suất để thu hút nhà đầu tư cá nhân nhỏ, lẻ.
Để đảm bảo sự phát triển bền vững của thị trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 81/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2018/NĐ-CP ngày 04/12/2018 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/9/2020), góp phần nâng cao các điều kiện phát hành, siết chặt các quy định về quản lý rủi ro.
Sau khi Nghị định số 81/2020/NĐ-CP có hiệu lực, tổng lượng phát hành đã giảm sút mạnh trong tháng 10 và liên tục giảm trong các tháng sau đó. Trong tháng 11/2020, trái phiếu doanh nghiệp phát hành chỉ đạt 11.162 tỷ đồng, tiếp tục giảm 4% so với tháng 10 và giảm mạnh 64% so với cùng kỳ năm 2019. Sự sụt giảm này là phản ứng chính sách hợp lý để thị trường điều chỉnh theo hướng phát triển bền vững hơn.
Vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp
Từ thực tế trên, nhóm tác giả đề xuất các giải pháp và định hướng cho các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất, chú trọng vào công tác lập ngân sách và dự báo nhằm quản trị dòng tiền một cách bài bản: Mỗi doanh nghiệp cần xác định một kịch bản tài chính phù hợp với điều kiện cụ thể của mình. Các doanh nghiệp nên lập kế hoạch tài chính định kỳ, bao gồm dự đoán thu - chi hàng tháng của doanh nghiệp; Dự báo các dòng tiền vào - dòng tiền ra khỏi doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp lên kế hoạch gọi vốn cho các trường hợp thiếu hụt dòng tiền. Điều này giúp cho doanh nghiệp thực sự an toàn trong những khoảng thời gian kinh doanh không ổn định; đồng thời, nó cũng tạo cơ hội để doanh nghiệp tận dụng các khoản đầu tư chiến lược hoặc thực hiện cắt giảm chi phí.
Thứ hai, tích cực kết nối với các tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại: Hệ thống các tổ chức tín dụng, ngân hàng cần sự phối hợp chủ động từ phía doanh nghiệp để liên kết và tích hợp các giải pháp nhằm giúp doanh nghiệp thuận tiện hơn trong việc triển khai thương mại điện tử bằng cách tích hợp ví điện tử, chữ ký số và các công cụ thanh toán 4.0 thay cho các phương thức truyền thống. Vừa giảm thiểu thanh toán tiền mặt, vừa minh bạch hoá các dòng tiền thu chi của doanh nghiệp. Đây cũng là cách để tự động đánh giá giá trị doanh nghiệp theo thời gian thực, giúp doanh nghiệp giải quyết bài toán về huy động vốn.
Bên cạnh đó, việc kết nối thường xuyên với các tổ chức tín dụng cũng giúp các doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt được những chương trình tín dụng ưu đãi và tận dụng chúng để mở rộng kênh huy động vốn của doanh nghiệp.
Thứ ba, ổn định chuỗi cung ứng và duy trì lượng hàng tồn kho hiệu quả: Các doanh nghiệp cần căn cứ vào các mô hình dự trữ hàng tồn kho để xác định lượng hàng tồn kho tối ưu, điểm tái đặt hàng mới và thời gian đặt hàng do chuỗi cung ứng tại các khu vực có thể bị đứt gẫy do ảnh hưởng của dịch bệnh.
Bên cạnh đó, nhà quản trị tài chính cần phải lưu tâm trong việc kết nối thông tin cũng như giữ mối quan hệ với các nhà cung cấp. Bởi vì, rất có thể, khi xảy ra dịch bệnh, nhu cầu tích trữ tăng đột biến. Sau đại dịch Covid-19, hoạt động sản xuất được phục hồi, khi đó việc ổn định chuỗi cung ứng là rất quan trọng và là cơ sở để ổn định trong trung hạn và dài hạn.
Thêm vào đó, với tình hình đại dịch còn diễn biến phức tạp, chưa thể chấm dứt ngaycác doanh nghiệp cần tích cực tìm kiếm các nhà cung cấp thay thế bên cạnh những nhà cung cấp truyền thống để nguồn cung nguyên vật liệu luôn được liên tục, không bị đứt gãy.
Thứ tư, các doanh nghiệp cần chủ động ứng dụng nền tảng số vào hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là trong hoạt động quản trị tài chính: Các phần mềm hiện nay sẽ giúp doanh nghiệp có thể tối đa hóa công tác quản lý các hoạt động chủ chốt như: kế toán, phân tích tài chính, quản lý mua hàng, quản lý hàng tồn kho… Dựa vào nền tảng này, nhà điều hành có thể nhìn thấy được bức tranh tài chính tổng quan của doanh nghiệp thông qua dữ liệu thực tế, từ đó đưa ra những quyết định chính xác hơn để gia tăng hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí (thời gian, nhân lực, vật lực), tăng doanh thu…
Thực tế cho thấy, hiện nay đã có rất nhiều các nền tảng số về quản lý doanh nghiệp được ứng dụng khá thành công tại các tập đoàn lớn như phần mềm ERP (được sử dụng tại Công ty bia Carlsberg; Công ty Bánh kẹo Kinh Đô, Công ty May 10…), hay nền tảng MISA AMIS (được sử dụng tại Dược phẩm Nhất Nhất, nhà hàng Trống Đồng Palace, Nhựa Thiếu niên Tiền Phong…). Những ứng dụng này nên được tiếp tục nhân rộng lên ở các doanh nghiệp khác.
Thứ năm, thiết lập trong doanh nghiệp một nhóm phản ứng dịch bệnh Covid-19 đa chức năng: Thông thường, khi dịch bệnh bùng phát, Chính phủ thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội, hầu hết các nhân viên đều phải rời khỏi vị trí làm việc của họ và dành một thời gian không nhỏ để phản ứng với virus. Do vậy, nhóm phản ứng đa chức năng, dưới sự lãnh đạo chung của CEO và CFO, sẽ tiến hành thực hiện các bước phản ứng tổng thể gồm:
(i) Nhanh chóng kiểm tra và xây dựng kế hoạch tài chính dự phòng;
(ii) Theo dõi các thông tin về đơn vị cung ứng nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch vụ;
(iii) Kiểm tra hàng tồn kho và xem xét cú sốc nhu cầu trước đại dịch;
(iv) Kiểm soát chặt chẽ khoản phải thu trong quá khứ và dự kiến trong ngắn hạn của doanh nghiệp;
(v) Phối hợp và liên lạc với các bên liên quan như: ngân hàng, đối tác, công ty bảo hiểm… nhằm giảm thiểu các thay đổi ảnh hưởng đến sự ổn định của doanh nghiệp.
Thứ sáu, xây dựng các kịch bản ứng phó với rủi ro: Các doanh nghiệp cần xây dựng kế hoạch hoạt động chung của doanh nghiệp mô phỏng các kịch bản với các mức độ phản ứng khác nhau. Trên cơ sở đó, các tìm ra các phương pháp nhất quán để thực hiện các kế hoạch đã được có sẵn, ví dụ như đơn vị cung ứng dòng tiền, đầu tư máy móc thích hợp…
Thứ bảy, bám sát và cập nhật các chính sách mới của Chính phủ: Việc bám sát chính sách giúp doanh nghiệp tận dụng được các ưu đãi mà Nhà nước dành cho doanh nghiệp, tạo lợi thế và giảm sốc các khó khăn đến cùng lúc.
Trên cơ sở các giải pháp về quản trị tài chính được đưa ra, doanh nghiệp cần đồng thời đảm bảo thực hiện những điều kiện sau để việc thực thi các giải pháp hiệu quả hơn như:
(i) Bảo vệ nhân viên của doanh nghiệp: Lý do thoạt đầu có vẻ mơ hồ, xong có thể nói, đại dịch Covid-19 đã đặt ra nhiều thách thức cảm xúc với rất nhiều người, thay đổi cuộc sống cũng như các nhiệm vụ công việc của người lao động theo một cách mà trước đây chưa từng có tiền lệ. Việc doanh nghiệp bảo vệ được nhân viên của mình trong khủng hoảng được cho là một “nguyên tắc bảo thủ” khởi đầu cho điểm kích hoạt trong việc thay đổi các chính sách tài chính quan trọng sau này. Các doanh nghiệp của Việt Nam cần cung cấp quyền tự chủ cho nhân viên và quyền tự chủ này giúp họ ứng phó với các tình huống linh hoạt của doanh nghiệp. Quyền tự chủ này kết hợp với các kế hoạch ứng phó đã được phân tích sẽ tạo thành hiệu ứng hai chiều cung cấp một không gian hoàn hảo trong việc hướng người lao động sát cánh cùng doanh nghiệp vượt qua khó khăn.
(ii) Luôn bên cạnh khách hàng: Các doanh nghiệp cần tập trung vào tập khách hàng cốt lõi, bởi doanh nghiệp khó có thể xoay chuyển nhanh chóng, cho nên không có gì tuyệt vời hơn là tập trung vào tập khách hàng cốt lõi và doanh nghiệp có cơ sở dự đoán được sự thay đổi trong hành vi tiêu dùng và sử dụng sản phẩm, dịch vụ.
Kết luận
Có thể nói, thời gian qua là thách thức và khó khăn lớn nhất đối với doanh nghiệp Việt Nam. Đằng sau rủi ro của dịch bệnh Covid-19 gây ra cũng là thời cơ để doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt cơ hội, tận dụng để thiết lập lại hệ thông quản trị tài chính, tìm hiểu đúng xu hướng của người tiêu dùng, từ đó có những sách lược đối phó và phục hồi sản xuất kinh doanh hiệu quả và phát triển bền vững.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2020), Kết luận số 77-KL/TW ngày 5/6/2020 về chủ trương khắc phục tác động của đại dịch Covid-19 để phục hồi và phát triển nền kinh tế đất nước;
2. Chính phủ (2020), Nghị định số 114/2020/NĐ-CP: Quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 116/2020/QH14 của Quốc hội về giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2020 đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tổ chức khác;
3. Tổng cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội quý IV/2020;
4. Ban nghiên cứu và Phát triển kinh tế tư nhân (2020), Báo cáo tác động của bùng phát dịch bệh Covid -19 lần 2 đối với doanh nghiệp và Tổng hợp các kiến nghị chính sách doanh nghiệp, hiệp hội gửi Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngày 4/9/2020;
5. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2020), Báo cáo Khảo sát sức khỏe doanh nghiệp Việt Nam Quý II/2020 và tác động của giai đoạn 2 dịch bệnh Covid-19 đến doanh nghiệp và người lao động;
6. Nguyễn Quang Thuấn (2020), Tác động của đại dịch Covid-19 và một số giải pháp chính sách cho Việt Nam trong giai đoạn tới, Tạp chí Cộng sản, số tháng 9/2020;
7. Phạm Thị Tường Vân (2021), Chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với đại dịch Covid-19, Tạp chí Tài chính, tháng 1/2021.
(*) Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 5/2021