Ngân hàng phải phục vụ DN

Theo DDDN

NHTM được làm gì hay NHTM phục vụ ai đang được bàn luận khá sôi nổi trong quá trình hoàn thiện dự thảo Luật sửa đổi một số điều Luật các tổ chức tín dụng (TCTD) dự kiến được Quốc hội thông qua trong tháng 5/2010. Tuy nhiên, đối với VN, NHTM phải đặt mục tiêu phục vụ DN sản xuất lên hàng đầu.

Theo lý thuyết cổ điển, chức năng quan trọng của ngân hàng là huy động từ người có dư tiền để cho vay khu vực sản xuất và  như thế người ta nói ngân hàng đóng vai trò quan trọng là kênh dẫn vốn từ khu vực tiết kiệm đến khu vực đầu tư sản suất kinh doanh. Để nguồn vốn được sử dụng hiệu quả trên phạm vi toàn xã hội, NHTM có vai trò quan trọng trong việc phân tích đánh giá DN và đưa nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư sản xuất.

NHTM quốc tế phục vụ ai?

Trước trào lưu NHTM đa năng, các nhà làm luật trên thế giới cũng phải đối mặt với nhiều vấn đê, trong đó có việc hướng NHTM phục vụ cho lĩnh vực nào của nền kinh tế. Chẳng hạn nên dành tín dụng cho khu vực đầu tư sản xuất đến mức nào và bao nhiêu cho khu vực phi sản xuất hay khu vực mạo hiểm khác. Với cách tiếp cận vì lợi ích xã hội (phúc lợi xã hội), người ta cho rằng hoạt động NHTM có mức độ nhạy cảm cao và dễ làm phương hại đến lợi ích xã hội và do đó hoạt động của khu vực NHTM đã được quản lý chặt chẽ ở nhiều quốc gia.

Nghiên cứu về lĩnh vực hoạt động của NHTM liên quan đến kinh doanh mạo hiểm hay một số lĩnh vực nổi cộm hiện nay như nhà đất, bảo hiểm, chứng khoán, báo cáo nghiên cứu của Đại học Cambridge tiến hành năm 2006 trên cơ sở lựa chọn ngẫu nhiên 152 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có kết quả đáng quan tâm. Kết quả của nghiên cứu này có thể có cho những gợi ý chính sách nhất định cho việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật cho hoạt động của NHTM đối với một số lĩnh vực rất nhạy cảm. Một trong những kết quả điều tra đáng quan tâm như sau:

- Về mức độ hạn chế NHTM kinh doanh chứng khoán: chỉ có 4 quốc gia cấm hoàn toàn NHTM kinh doanh chứng khoán, 21 quốc gia hạn chế, 66 nước cho phép theo kiểu có kiểm soát/cấp phép; 61 quốc gia không cấm.

- Về mức độ hạn chế NHTM kinh doanh bất động sản: có tới 48 quốc gia cấm hoàn toàn NHTM kinh doanh lĩnh vực này, 36 quốc gia hạn chế, 37 nước cho phép theo kiểu có kiểm soát/cấp phép; 11 quốc gia không cấm.

- Về mức độ hạn chế NHTM kinh doanh bảo hiểm: có tới 39 quốc gia cấm hoàn toàn NHTM kinh doanh lĩnh vực này, 53 quốc gia hạn chế, 47 nước cho phép theo kiểu có kiểm soát/cấp phép; 14 quốc gia không cấm.

Kết quả điều tra cũng cho thấy, mục tiêu của các chính sách cấm đoán hay hạn chế các NHTM kinh doanh ra ngoài lĩnh vực tín dụng truyền thống của các chính phủ là nhằm định hướng tín dụng vào khu vực sản xuất vật chất và hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn hệ thống của khu vực ngân hàng. Ngoài ra mức độ hạn chế này cũng tùy thuộc theo mức độ phát triển của thị trường tài chính, năng lực quản lý của cơ quan quản lý và bản thân các NHTM mà có sự khác nhau về mức độ hạn chế NHTM kinh doanh vào các lĩnh vực này. Về phương diện này, nghiên cứu cho thấy, các  nền kinh tế phát triển thì có mức độ tự do hóa cao hơn hẳn các nước kém phát triển. 

Còn NHTM Việt Nam?

Từ trước tới nay ít ai hỏi rằng NHTM VN đang phục vụ ai? Tuy nhiên, khi nhìn lại việc cho vay bất động sản của hệ thống ngân hàng ở Mỹ và hiện nay là vấn đề bong bóng nhà đất ở Trung Quốc thì có lẽ câu hỏi này là cần thiết.

Nhìn vào dự thảo sửa đổi Luật CTCTD  khoản 6, Điều 103: cấm NHTM, Cty con của NHTM mua, nắm giữ cổ phần của các TCTD khác rõ ràng các nhà làm luật VN đang đi theo hướng thiết lập một hệ thống quản lý chặt chẽ và hướng dòng vốn tín dụng ngân hàng cho khu vực sản xuất hơn là để cho dòng vốn này chảy quá nhiều vào khu vực phi sản xuất (như chứng khoán, vàng, đầu cơ nhà đất...). Hoặc đó cũng là ý tưởng về việc hạn chế hiệu ứng “đại gia ngân hàng”, khi mà một số nước đang có ý hạn chế sự hình thành các định chế quá lớn,  do sự quản lý của chính NHTM cũng như của cơ quan quản lý không thể theo kịp.

Về ý tưởng thành lập ngân hàng lớn trong dự thảo luật, vấn đề này cần liên tưởng tới hiệu ứng “đại gia ngân hàng”. Bài học từ nhiều nước cho thấy, do hiệu ứng “đại gia” mà dòng vốn cứ chảy thiếu cẩn trọng vào các NHTM đại gia này và khi đó từ các “đại gia” này hình thành nên sự thiếu cẩn trọng về sử dụng vốn mà dẫn đến sự yếu kém của các đại gia này. Hơn nữa, khi các đại gia “có mệnh hệ gì” thì nhà nước lại bắt buộc phải cứu (vì không cứu thì không được).

Với các NHTM lớn ở VN (trước đây là các NHTM QD), từ trước đến nay, các ngân hàng này vẫn được coi là ngân hàng quan trọng nhất  dẫn vốn cho khu vực sản xuất, góp phần tăng trưởng kinh tế thực sự. Thực tế cũng cho thấy, nền kinh tế  VN vẫn đang kỳ vọng rằng, các NHTM lớn (nhất là NHTM nhà nước) phải huy động thật nhiều vốn để cho vay sản xuất hơn là huy động để tài trợ cho việc góp vốn vào các DN khác hoặc tài trợ cho các hoạt động phi sản xuất và có tính rủi ro cao.

Số liệu thống kê của IMF và khảo sát thực tế cho thấy  tính trung gian tài chính (đo bằng chỉ số giữa dư nợ cho vay so với huy động) ở các NHTM lớn ở VN là khá thấp. Số liệu ở từng NHTM có thể cho những đánh giá sâu sắc hơn nhiều và có thể chỉ ra rằng, trong thời gian qua có nhiều NHTM lớn ở VN có phần e ngại DN và chạy theo đầu cơ nhà đất hoặc lĩnh vực phi sản xuất khác.

Khảo sát và số liệu thống kê trong thời kỳ suy thoái kinh tế cũng cho thấy càng NHTM VN lớn (về vốn) lại càng e ngại  cho vay nền kinh tế (DN sản xuất) và các NHTM lớn thường cho vay thị trường 2 và đầu tư tài chính (như góp vốn mua cổ phần, thành lập các Cty con...). Điều đáng quan tâm là đa số các NHTM nhà nước đều đã và đang dự định thành lập (hoặc góp vốn vào) nhiều Cty con, Cty khác và đặc biệt là phần lớn là vào các Cty chứng khoán, ngân hàng khác và Cty kinh doanh bất động sản; mở rất nhiều chi nhánh; xây dựng rất nhiều tòa nhà cao ốc. Khảo sát cho thấy, thời gian gần đây, các dự án về các “tòa nhà chọc trời” ở VN đã, đang và sẽ xây dựng đều có liên quan đến NHTM. Nhiều NHTM cổ phần (kể cả NHTM mới thành lập) cũng đã, đang và sẽ đưa ra định hướng về hình thành một tập đoàn tài chính với mô hình giống hệt nhau  là:  “Ngân hàng + Chứng khoán + Bất động sản + Vàng + Bảo hiểm + ...”.

Nhận định về kết quả, hay hiệu ứng về NHTM tăng vốn lên mức tối thiểu 3.000 tỷ đồng vào cuối năm 2010 theo Nghị định 141, một số ý kiến cho rằng, sự  tăng vốn này chủ yếu cho việc hình thành cái gọi tập đoàn tài chính rất to nhưng nền kinh tế (hàm ý khu vực sản xuất vật chất) khó có thể có lợi gì như vốn tín dụng hay mức lãi suất thấp hơn hiện nay; chưa kể việc tăng vốn này không chắc làm NHTM mạnh lên do tăng vốn mà quản  lý chưa theo kịp.

Về định hướng sửa đổi Luật các TCTD liên quan đến việc NHTM lớn đầu tư (góp vốn vào NHTM nhỏ) một số ý kiến cho ràng, vấn đề cải thiện công nghệ, kinh nghiệm... ở các NHTMCP nhỏ nên theo một cách tiếp cận khác như quy định về điều kiện tối thiểu đối với từng lĩnh vực kinh doanh thì ngân hàng phải đảm bảo điều kiện gì. Trong thực tế ở VN, việc các ngân hàng lớn góp vốn vào các ngân hàng nhỏ thường có mục tiêu thương mại (ngắn hạn) vì lợi ích ngắn hạn của các cổ đông (đầu cơ) và không dài hạn nên mục tiêu cải thiện quản trị, công nghệ không được đặt lên hàng đầu. Thực tế cũng cho thấy, khi các NHTM lớn góp vốn vào các NHTM nhỏ thì sẽ tạo ra hiệu ứng cho các nhà đầu tư nhỏ khác đầu tư theo. Các quan sát và ý kiến chuyên gia kinh tế cho rằng, sự quản lý ở NHTM chỉ tốt lên khi quá trình tăng vốn này được kiểm soát nghiêm ngặt theo các điều kiện nếu không sự góp vốn này sẽ tạo ra hiêu ứng đại gia và làm cho quản lý tại NHTM lại càng kém cẩn trọng và ngân hàng lại càng yếu.

 Như vậy, quy định góp vốn của NHTM này vào NHTM khác trong luật muốn đạt được hiệu quả tốt thì ít nhất phải có cơ chế nào đó hạn chế được hiệu ứng đại gia theo cách thức trên. Khi đó việc NHTM lớn góp vốn vào NHTM nhỏ sẽ đạt được mục tiêu thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Và qua đó các ngân hàng lớn có thể mở rộng thị phần, địa bàn hoạt động thông qua việc nắm giữ cổ phần của các tổ chức tín dụng khác.

Nhiều quan điểm của các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, việc góp vốn, mua cổ phần giữa các ngân hàng và tổ chức tín dụng là cần thiết nhưng cần có điều kiện cụ thể. Đi kèm với quá trình đó, phải là sự nâng cấp hệ thống giám sát, tránh các hiệu ứng tiêu cực và hạn chế việc NHTM lười cho vay sản xuất. Việc giám sát về lĩnh vực này đối với NHTM VN hiện nay cần được đưa vào trong luật theo hướng đảm bảo để NHTM phục vụ khu vực sản xuất nhiều hơn nữa - nhất là  các DN vừa và nhỏ, các DN ở vùng sâu vùng xa: Có thể NHTM chỉ được góp vốn vào các tổ chức tín dụng khác khi đạt mức cho vay DN vừa và nhỏ đạt một tỷ lệ nào đó. Về chỉ số này, các nhà kinh tế còn cho rằng đó là chỉ số cam kết của NHTM với nền kinh tế; Nếu NHTM nào mà xa lánh DN vừa và nhỏ thì thạm chí nên hạn chế hoạt động của NHTM đó (có khi không cho thành lập, nếu là xin mới);

Ngoài ra, Nhà nước cũng nên xem xét ngay từ khi cho thành lập ngân hàng. Hiện ở VN, có nhiều NHTM CP nông thôn được thành lập từ những năm 1990... nhưng thời gian qua, sự góp vốn của các NHTM lớn vào  các NHTM này thì đến nay ở VN hầu như không còn các NHTM CP nông thôn nữa mà biến thành... NHTM CP đô thị.

Ngoài ra, việc hạn chế các ngân hàng cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán không chỉ để bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống các TCTD mà còn để đảm bảo hệ thống ngân hàng phục vụ nhiều hơn cho  khu vực sản xuất. Theo nhiều ý kiến chuyên gia, ở VN, Luật các tổ chức tín dụng cần thiết phải đưa ra giới hạn mà các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép cho vay vào hoạt động này. Tuy nhiên, không nên cào bằng mà có điều kiện cho từng ngân hàng như: NHTM có tỷ lệ cho vay khu vực sản xuất (như DN vừa và nhỏ) bao nhiêu phần trăm và có hệ thống quản lý rủi ro (vi mô, vĩ mô...) như thế nào đó thì mới được kinh cho vay các lĩnh vực này theo các tỷ lệ khác nhau...

Dự thảo luật các TCTD còn nghiêm cấm tổ chức, cá nhân không phải là tổ chức tín dụng hoạt động ngân hàng. Việc cấm đoán thường tạo ra phản ứng không hay trong dư luận. Tuy nhiên, thực tế cho thấy vấn đề “hoạt động ngân hàng” ở các Cty chứng khoán là được chú ý về mức độ chuyên nghiệp nhất là nghiệp vụ quản lý tài khoản của nhà đầu tư. Việc khó khăn trong tách bạch tài khoản giữa Cty chứng khoán và nhà đầu tư; nhiều tranh chấp liên quan đến tài khoản tiền đồng, tài khoản chứng khoán vừa qua ở nhiều Cty chứng khoán cho thấy điều đó. Ngoài ra,  hiện nay các Cty chứng khoán thực hiện một số hoạt động có bản chất là dịch vụ ngân hàng như: Cty chứng khoán cấp tín dụng thông qua các nghiệp vụ repo chứng khoán (giao dịch mua hoặc bán lại chứng khoán có kỳ hạn)... Với thực trạng đó cho thấy nếu Luật các TCTD sửa đổi mở quá mứcthì khu vực tài chính VN sẽ phát triển nhanh và cũng đi kèm với rủi ro lớn.

Một số chuyên gia có ý kiến rằng, vấn đề không cấm đoán NHTM hoạt động ngành nghề khác mà nên đặt ra điều kiện về quản lý an toàn và bền vững và đảm bảo để hệ thống tài chính ngân hàng vẫn hành đúng chức năng chính và quan trọng của nó là đưa vốn tư khu vực tiết kiệm đến khu vực cần vốn thực sự là DN sản xuất. Có lẽ nên tập trung vào kiểm soát tốc độ của thị trường vì đẩy thị trường phát triển quá nhanh, quá nóng sẽ khiến “bong bóng” có thể nổ bất cứ lúc nào.