Một số lý luận cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại


Trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào, hoạt động tín dụng luôn là hoạt động cốt lõi mang lại nguồn thu lớn nhất cho các ngân hàng. Trong bối cảnh cạnh tranh như hiện nay, một vấn đề quan trọng có thể quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại chính là quản trị rủi ro tín dụng một cách hiệu quả.

Một vấn đề quan trọng có thể quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại chính là quản trị rủi ro tín dụng một cách hiệu quả. Nguồn: internet
Một vấn đề quan trọng có thể quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại chính là quản trị rủi ro tín dụng một cách hiệu quả. Nguồn: internet

Việc tìm ra các giải pháp tích cực nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng của hệ thống quản trị rủi ro tín dụng đối với khách hàng luôn có ý nghĩa quan trọng lâu dài. Bài viết tập trung đề cập đến một số lý luận cơ bản giúp người đọc có cái nhìn khái quát, toàn diện về hoạt động quản trị rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại hiện nay ở nước ta.

Hoạt động cấp tín dụng tại các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng hoạt động của ngân hàng. Theo số liệu báo cáo về hoạt động ngành Ngân hàng, nguồn thu lãi vay của hệ thống các ngân hàng Việt Nam chiếm từ 75% - 80% tổng các nguồn thu của ngân hàng. Chính vì vậy, hoạt động cấp tín dụng trong các ngân hàng là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, hoạt động này luôn tiềm ẩn rủi ro, do đó cần đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng đồng thời cân bằng giữa áp lực phát triển và quản trị rủi ro tín dụng (RRTD) sao cho phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế Việt Nam nói chung và mục tiêu kinh doanh của các NHTM nói riêng. Thực tế trên, đòi hỏi các nhà quản trị cần có những kiến thức cơ bản nhất về hoạt động quản trị RRTD tại các NHTM.

Khái quát về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng

Khi nói đến RRTD trong ngân hàng, đơn giản nhất có thể hiểu “RRTD là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng (TCTD) do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”. Trong bộ “17 nguyên tắc quản trị RRTD” của Basel 2 được Ủy ban Basel ban hành tháng 9/2000 có đề cập: “RRTD là khả năng bên vay nợ ngân hàng hoặc bên đối tác không đáp ứng nghĩa vụ thanh toán theo các điều khoản đã thỏa thuận”.

Theo cuốn Quản trị rủi ro ngân hàng (2001) của Joel Bessis, RRTD được hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả được nợ hoặc đó là sự giảm sút chất lượng tín dụng của những khoản vay.

Như vậy, RRTD có thể xảy ra bất cứ lúc nào, nó là sự không chắc chắn trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán của người được cấp tín dụng cho ngân hàng theo đúng cam kết đã ký. RRTD là điều không thể tránh khỏi trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có thể nói rằng việc ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tín dụng chính là hoạt động kinh doanh thu lợi dựa trên rủi ro phát sinh từ hoạt động đó.

Quản trị rủi ro tín dụng

Theo Tổ chức Moody’s Analytics, quản trị RRTD là một quá trình thực hiện các biện pháp giảm tổn thất bằng cách hiểu một cách đầy đủ về vốn và dự phòng RRTD trong một khoảng thời gian nhất định. Với quan điểm này thì quản trị RRTD thực chất là việc nhà quản trị có những biện pháp để quản lý vốn và dự phòng cho RRTD.

Ủy ban Basel cho rằng, quản trị RRTD là việc thực hiện các biện pháp tối đa hóa tỷ suất sinh lời điều chỉnh theo RRTD bằng cách duy trì số dư tín dụng trong phạm vi các tham số cho phép. Khái niệm về quản trị RRTD của Ủy ban Basel đã làm rõ được vấn đề đó là mục đích của quản trị RRTD là tối đa hóa lợi nhuận dựa trên cơ sở đảm bảo tổn thất do RRTD gây ra nằm trong giới hạn mà ngân hàng có thể chấp nhận được.

 Theo khung quản trị RRTD của ngân hàng Standard Charter (năm 2012), quản trị RRTD là quá trình quản lý RRTD thông qua thiết lập khung các chính sách và thủ tục, nhằm kiểm soát việc đo lường và quản lý RRTD. Trong khi đó, tài liệu hướng dẫn quản trị RRTD của MAS (Singapore) cho biết, quản trị RRTD là quá trình nhận diện, đo lường, đánh giá, giám sát, kiểm soát và báo cáo RRTD thông qua thiết lập khung các chính sách và thủ tục, nhằm kiểm soát việc đo lường và quản lý RRTD.

Các mô hình quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại

Hiện nay, có 02 mô hình quản trị RRTD được phổ biến sử dụng đó là:

- Mô hình quản trị RRTD tập trung: Công tác thẩm định khách hàng, quản lý rủi ro khách hàng, ngân hàng được tập trung ở hội sở chính hoặc theo vùng, miền. Mô hình này tách biệt độc lập giữa 02 chức năng: Chức năng kinh doanh và chức năng quản trị rủi ro.

 Phạm vi áp dụng: Mô hình này thông thường được thực hiện ở các ngân hàng có quy mô hoạt động lớn.

- Mô hình quản trị RRTD phân tán: Công tác thẩm định khách hàng, quản lý rủi ro của ngân hàng được thực hiện tại các chi nhánh riêng biệt. Hội sở chính chỉ có nhiệm vụ chỉ đạo hướng dẫn chung và thẩm định khách hàng vượt quá khả năng cho phép của chi nhánh. Mô hình này chưa tách biệt được độc lập chức năng kinh doanh và chức năng quản trị rủi ro.

Phạm vi áp dụng được áp dụng thực hiện ở các ngân hàng có quy mô hoạt động nhỏ.

Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại

Nhóm các nhân tố vĩ mô

03 nhân tố vĩ mô của nền kinh tế tác động chính tới quản trị RRTD tại ngân hàng đó là: Tăng trưởng GDP, lạm phát và lãi suất. Lịch sử đã chứng minh rằng, tăng trưởng GDP, lạm phát và lãi suất có ảnh hưởng tới RRTD, đồng thời, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả quản trị RRTD.

Các nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng, tăng trưởng GDP có tác động ngược chiều với RRTD. Trường hợp nền kinh tế tăng trưởng, phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của khách hàng được cấp tín dụng, vì vậy, rõ ràng là xác suất xảy ra RRTD sẽ thấp hơn ở thời kỳ nền kinh tế suy thoái, hiệu quả quản trị RRTD của NHTM trong thời điểm này sẽ cao hơn.

Tương tự như tăng trưởng GDP, lạm phát cũng có tác động lớn đến quản trị RRTD tại NHTM: Lạm phát cao được biết đến như là một trong những yếu tố gây ra khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp, cá nhân tham gia vào nền kinh tế, trong lưu thông, khi vật giá tăng quá nhanh thì tình trạng đầu cơ, tích trữ thường xuyên xảy ra, gây nên sự mất cân đối giả tạo làm cho lưu thông rối loạn. Điều này làm ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh cũng như thu nhập của các thành phần tham gia vào nền kinh tế.

Lạm phát cao và siêu lạm phát làm cho hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng. Nguồn tiền trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng, các thành phần tham gia vào nền kinh tế có thể mất khả năng thanh toán, các tính toán kinh tế bị sai lệch nhiều theo thời gian, từ đó gây khó khăn cho các hoạt động đầu tư, do đó xảy ra RRTD là điều tất yếu, hiệu quả quản trị RRTD cũng sẽ thấp hơn thời kỳ lạm phát thấp.

Lãi suất cũng là yếu tố tác động đến RRTD và quản trị RRTD, trong trường hợp lãi suất thực tăng có thể tạo động lực cho ngân hàng gia tăng các khoản cấp tín dụng. Nếu tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng lên thì RRTD cũng sẽ có cơ hội gia tăng, hiệu quả quản trị RRTD suy giảm và ngược lại.

Nhóm các nhân tố thuộc về nội tại của các ngân hàng:

- Về quy mô của ngân hàng:

Qua các nghiên cứu cho thấy, thực tế quy mô của ngân hàng có tác động 2 chiều đến RRTD cũng như hiệu quả quản trị RRTD. Hiện nay, các nghiên cứu đi theo 2 hướng. Thứ nhất, ngân hàng có quy mô lớn thường có nguy cơ RRTD cao hơn, hiệu quả quản trị RRTD thấp hơn các ngân hàng có quy mô nhỏ. Theo lý giải thông thường, đối với những ngân hàng có quy mô lớn, đối tượng khách hàng đều là những doanh nghiệp lớn trong các lĩnh vực khác nhau, vì vậy khi xảy ra biến động thị trường, các doanh nghiệp này dễ bị tổn thất nặng nề, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh từ đó xác suất không thực hiện được nghĩa vụ tín dụng đối với ngân hàng là khá lớn. Bên cạnh đó, đối với đối tượng khách hàng này, tâm lý chung của các ngân hàng là đơn giản hoá các thủ tục tín dụng, vì vậy tạo ra lỗ hổng trong quá trình cấp tín dụng sẽ phát sinh RRTD.

Thứ hai, một số nhà nghiên cứu lại cho rằng, quy mô tín dụng ngân hàng có tác động ngược chiều đến RRTD, nghĩa là với những ngân hàng có quy mô lớn, có đầy đủ nguồn lực để xây dựng một hệ thống quản trị rủi ro tốt hơn, do đó RRTD đối với các ngân hàng này là khá thấp mang lại hiệu quả quản trị RRTD cao.

- Về tốc độ tăng trưởng tín dụng, cơ cấu tín dụng:

Tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh có thể tiềm ẩn chất lượng tín dụng không cao, xác suất xảy ra RRTD lớn, hiệu quả quản trị RRTD không được như mong muốn. Cơ cấu tín dụng trong từng thời kỳ của các ngân hàng cũng ảnh hưởng đến RRTD (cơ cấu tín dụng theo ngành nghề, cơ cấu tín dụng theo đối tượng khách hàng, cơ cấu tín dụng theo thời gian…) Căn cứ vào chính sách và kế hoạch phát triển tín dụng từng năm của các ngân hàng, cơ cấu tín dụng sẽ có thay đổi. Trường hợp cơ cấu tín dụng của ngân hàng không có sự điều chỉnh cân bằng phù hợp, chẳng hạn tỷ trọng cấp tín dụng trong lĩnh vực bất động sản cao hơn trong các ngành, lĩnh vực khác hoặc chú trọng phát triển đối tượng khách hàng tín dụng doanh nghiệp lớn… thì RRTD sẽ cao hơn do nguồn vốn tín dụng chỉ tập trung vào các lĩnh vực này. Nếu xảy ra biến động lớn, ngân hàng có khả năng sẽ lâm vào tình trạng mất cân đối vốn, mất khả năng thanh khoản, làm giảm uy tín của ngân hàng. Tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu (ROE): Tỷ lệ ROE của ngân hàng trong một thời kỳ ở mức thấp, điều này thể hiện hiệu quả kinh doanh từ hoạt động tín dụng không cao, đây cũng chính là kết quả của công tác quản trị RRTD thực hiện không tốt, gây thất thoát nguồn vốn và làm suy giảm nguồn lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

- Về nguồn nhân lực:

Trong hoạt động tín dụng, nếu chất lượng nguồn nhân lực yếu kém, không đủ năng lực chuyên môn để thực hiện thẩm định yêu cầu cấp tín dụng của khách hàng thì RRTD phát sinh là điều không thể tránh khỏi. Điều này cũng thể hiện năng lực quản trị RRTD của mỗi ngân hàng chưa thực sự tốt. Bên cạnh đó, đạo đức nghề nghiệp của mỗi cán bộ tín dụng cũng là vấn đề cần quan tâm. Cán bộ tín dụng thiếu đạo đức nghề nghiệp, vì tư lợi có thể làm sai lệch hồ sơ xin cấp tín dụng hoặc bỏ qua, xem nhẹ các quy định cấp tín dụng đối với mỗi khách hàng cũng chính là nguyên nhân gây nên RRTD cho ngân hàng.

Ngoài những nhân tố nêu trên, theo các nghiên cứu thực nghiệm của các nhà khoa học trên thế giới và trong nước thì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR), chính sách tín dụng của các ngân hàng trong từng thời kỳ, tỷ suất lợi nhuận/tổng tài sản (ROA)… đều có ảnh hưởng cùng chiều hoặc ngược chiều đến hiệu quả của quản trị RRTD tại các NHTM.

Quy trình quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại

Quy trình quản trị RRTD bao gồm 04 nội dung: Nhận biết rủi ro; đo lường rủi ro; ứng phó rủi ro; kiểm soát rủi ro. Đây là toàn bộ các khâu trong một quy trình quản trị RRTD. Tất cả các khâu này đều có sự liên kết chặt chẽ với nhau, tạo thành một chu trình liên tục, mới có thể tạo thành một quy trình quản trị RRTD hoàn chỉnh và hiệu quả.

Trước tiên, ngân hàng cần phải tiến hành nhận biết được rủi ro tín dụng, thông qua những dấu hiệu cảnh báo sớm để có những giải pháp xử lý các vấn đề kịp thời và có hiệu quả. Đo lường RRTD là việc lượng hóa các mức độ rủi ro cũng như biết được xác suất rủi ro, mức độ tổn thất khi xảy ra rủi ro và khả năng chấp nhận nó của các ngân hàng. Đây chính là cơ sở để các ngân hàng đưa ra những chính sách phù hợp, nhanh chóng khi xảy ra RRTD.

Ứng phó RRTD là việc sử dụng hệ thống công cụ, chính sách nhằm ngăn ngừa và xử lý RRTD trong ngân hàng. Các chính sách đó có thể là: chính sách tín dụng, quy trình tín dụng, quy định về chức năng nhiệm vụ bộ máy quản trị RRTD, các giới hạn tín dụng...

Kiểm soát RRTD là bước cuối cùng trong công tác quản trị RRTD. Ở bước này, ngân hàng sẽ đưa ra các quyết định và biện pháp để tài trợ, khắc phục và hạn chế thấp nhất chi phí rủi ro và tổn thất mà RRTD đã gây ra cho ngân hàng.

Trong tình hình hiện nay, vấn đề kiểm soát được rủi ro tín dụng tại các NHTM là điều hết sức cấp thiết. Vì vậy, việc tìm ra các giải pháp tích cực nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng của hệ thống quản trị RRTD đối với khách hàng luôn có ý nghĩa quan trọng lâu dài. Điều đó đặt ra cho các nhà quản trị NHTM cần có kiến thức sâu rộng về hoạt động quản trị RRTD, từ đó giúp hoạch định được chính sách và đưa ra những quyết sách hợp lý, nhằm mang lại hiệu quả cao trong việc giảm thiểu rủi ro của hoạt động tín dụng trong các NHTM.

Tài liệu tham khảo:

  1. Quốc hội (2010), Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12;
  2. Phạm Ngọc Duy & Đinh Xuân Hạng (2013), Giáo trình Tài chính – Tiền tệ, NXB Tài chính;
  3. Nguyễn Văn Tiến (2010), Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng,
    NXB Thống kê;
  4. Basel Committee on Banking Supervision (2006), Sound credit risk Assessment and Valuation for Loans;
  5. KPMG (2011), Credit risk under Basel 2;
  6. MAS (2013), Guidelines on risk management practices- credit risk;
  7. Joel Bessis, 2015, 4th Edition, Risk Management in Banking.