Những kết quả bước đầu của tái cơ cấu nền kinh tế và doanh nghiệp nhà nước
(Tài chính) Tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng là một quá trình lâu dài và phức tạp, lại diễn ra trong điều kiện kinh tế thế giới diễn biến khó lường, cùng với những tồn tại từ nhiều năm trước của nền kinh tế nước ta, vì vậy, các giải pháp đưa ra phải vừa xử lý các vấn đề trước mắt, vừa hướng đến các vấn đề cơ bản và dài hạn. Tuy hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến băn khoăn, thậm chí quan ngại về tốc độ tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng song nhìn một cách tổng thể, những kết quả tích cực thời gian qua là điều không thể phủ nhận.

Về tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công. Chính phủ khẳng định đã điều chỉnh cơ cấu và cơ chế phân bổ vốn đầu tư; tập trung vốn cho các công trình, dự án quan trọng, cấp thiết và vốn đối ứng cho các dự án ODA. Kiểm soát chặt chẽ các dự án, công trình khởi công mới, khắc phục một bước tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả. Thực hiện cơ chế quản lý, cân đối vốn đầu tư theo kế hoạch trung hạn. Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý đầu tư, bảo đảm quản lý thống nhất của trung ương, tăng cường trách nhiệm của địa phương và chủ đầu tư. Đẩy mạnh thu hút đầu tư xã hội. Thống kê cho thấy, tỷ trọng vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước tăng từ 61,3% giai đoạn 2006 - 2010 lên 62,6% giai đoạn 2011 - 2013.
Về tái cơ cấu tài chính, tín dụng, trọng tâm là các ngân hàng thương mại (NHTM). Việc triển khai đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng đã mang lại những kết quả nhất định. Theo đó, Bộ Tài chính đã quyết liệt thực hiện cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty chứng khoán, bảo hiểm. Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm bảo đảm hoạt động của hệ thống ngân hàng được kiểm soát và an toàn. Các ngân hàng yếu kém được cơ cấu lại. Năm 2012 và 9 tháng đầu năm 2013, đã giảm 5 tổ chức tín dụng thông qua sáp nhập, hợp nhất, giải thể; rút giấy phép 3 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đã cổ phần hóa 4 NHTM nhà nước. Chuyển Quỹ Tín dụng Nhân dân Trung ương thành Ngân hàng Hợp tác xã. Thanh khoản được cải thiện, sức cạnh tranh của hệ thống NHTM được nâng lên. Bên cạnh đó, NHNN cũng đã hoàn thiện các quy định về an toàn và tăng cường giám sát, thanh tra hoạt động của các tổ chức tín dụng; Tăng cường rà soát, ngăn chặn tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng.
Ngoài ra, NHNN đã chủ động xử lý nợ xấu, kiềm chế nợ xấu gia tăng và đã đưa Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) vào hoạt động. Theo Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình, vừa qua, nợ xấu chủ yếu được xử lý thông qua các hình thức như: NHNN đã cho phép các tổ chức tín dụng có cơ chế mới trong việc cơ cấu lại các khoản nợ. Đến nay, tổng số nợ mà các tổ chức tín dụng cơ cấu lại cho các khách hàng vay đã lên tới trên 300 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng hơn 10% tổng dư nợ, trong số này có khoảng 60% các khoản nợ nếu không được cơ cấu lại thì đã trở thành nợ xấu. Bên cạnh đó, tích cực trích lập dự phòng rủi ro và xử lý nợ xấu bằng nguồn dự phòng rủi ro. Trong năm 2012 toàn hệ thống NHTM đã trích lập và xử lý nợ xấu bằng nguồn trích lập dự phòng rủi ro khoảng 70 nghìn tỷ đồng; 9 tháng năm 2013 đã trích lập và xử lý nợ xấu thêm 32 nghìn tỷ đồng. Theo kế hoạch, trong năm 2013, sẽ trích lập và xử lý nợ xấu bằng nguồn này khoảng 70 nghìn tỷ đồng. Đến nay, từ khi bắt tay chính thức vào mua nợ xấu thì VAMC đã mua được 10 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Thống đốc Nguyễn Văn Bình khẳng định, nếu không triển khai các giải pháp nêu trên thì nợ xấu của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã tăng thêm khoảng 10%. Đó là kết quả tích cực rất to lớn trong quá trình xử lý nợ xấu.
Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Chính phủ đã tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách đổi mới quản lý DNNN. Triển khai thực hiện nhiều văn bản pháp luật theo hướng tăng cường quản lý nhà nước và xác định rõ quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước tại DN; đề cao trách nhiệm, phát huy tính tự chủ và công khai minh bạch của DN trong kinh tế thị trường theo quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế. Hàng loạt các quy định đã được ban hành nhằm nâng cao hiệu quả của các DNNN như: Nghị định 50 về quản lý lao động, tiền lương, tiền thưởng; Nghị định 51 về chế độ tiền lương đối với viên chức quản lý; Nghị định 61 về quy chế giám sát tài chính, đánh giá kết quả hoạt động và công khai thông tin tài chính; Nghị định 71 về đầu tư vốn nhà nước vào DN và quản lý tài chính đối với DNNN và Nghị định 99 về phân công, phân cấp thực hiện quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và vốn nhà nước đầu tư vào DN... Hiện nay, đang nghiên cứu, soạn thảo gần 30 đề án, văn bản quy phạm pháp luật, trong đó một số quy định thiết lập thể chế tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tại DNNN đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty; tách chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản lý nhà nước…
Bên cạnh đó, đã triển khai Đề án tái cơ cấu DNNN giai đoạn 2011 - 2015, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và cung ứng các dịch vụ công thiết yếu, quốc phòng an ninh. Báo cáo của Chính phủ cho biết, tính đến nay đã phê duyệt các đề án tái cơ cấu của 68 tập đoàn, tổng công ty nhà nước; trong đó, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 19/21 đề án, các bộ, ngành phê duyệt 39 đề án, các địa phương phê duyệt 10 đề án. Tính đến hết tháng 8/2013, Chính phủ đã phê duyệt 100/101 đề án sắp xếp, đổi mới DNNN của các bộ, ngành, địa phương. Đã dừng thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế đối với 2 tập đoàn trong ngành xây dựng, chuyển đổi Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam thành Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy.
Thực hiện tái cơ cấu từng tập đoàn và tổng công ty, phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động, xác định nhiệm vụ và ngành nghề kinh doanh chính, thoái vốn đầu tư ngoài ngành, đẩy mạnh cổ phần hóa, đổi mới quản trị DN, tăng cường kiểm soát nội bộ và công tác quản lý cán bộ. Nếu như năm 2011, cổ phần hóa được 16 DN; năm 2012 cổ phần hóa được 13 DN, thì 9 tháng đầu năm 2013 đã cổ phần hóa được 41 DN. Số DN 100% vốn nhà nước giảm từ 5.655 DN năm 2001 đến nay còn 1.254 DN.
Điều đáng mừng là hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh của DNNN có bước được cải thiện. Hiện nay, khoảng 80% DNNN hoạt động có lãi. Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước năm 2010 và năm 2011 đều đạt trên 18%, năm 2012 đạt 17,4%. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu dưới 2 lần, nằm trong giới hạn cho phép. DNNN đóng góp trên 33% GDP. DNNN cơ bản thực hiện được vai trò nhiệm vụ được giao. Quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với DNNN tiếp tục được hoàn thiện, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường và yêu cầu hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản trong GDP giảm từ 20,6% năm 2010, xuống còn khoảng 19,3% năm 2013. Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm từ 49,5% năm 2010 xuống còn 48,4% năm 2011, còn 47,4% năm 2012 và ước 47% năm 2013. Tỷ trọng dân số nông thôn giảm từ 69,5% năm 2010 xuống còn 68,25% năm 2011, còn 68,06% năm 2012 và ước 67,6% năm 2013. Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, đã tập trung phát triển các ngành có hàm lượng công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng từ 60,2% năm 2010 lên khoảng 78% năm 2013…
Ngoài ra, cũng đã triển khai Đề án tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Tập trung chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng các vùng chuyên canh, sản xuất quy mô lớn, khu nông nghiệp công nghệ cao, liên kết sản xuất với chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Nhiều mô hình tổ chức sản xuất mới phù hợp với năng lực sản xuất, yêu cầu của thị trường và bảo đảm hài hòa lợi ích được hình thành và từng bước nhân rộng. Chương trình xây dựng nông thôn mới được tích cực triển khai. Nông thôn có nhiều đổi mới, nhất là về kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội; đời sống vật chất và tinh thần của người dân tiếp tục được cải thiện. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn chuyển dịch tích cực; tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp trong kinh tế nông thôn giảm; tỷ trọng lao động nông nghiệp trên địa bàn nông thôn giảm từ 49,5% năm 2010 xuống còn 47% năm 2013. Nông nghiệp và nông thôn luôn đóng góp quan trọng vào sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Cũng theo báo cáo của Chính phủ, trong lĩnh vực dịch vụ, từng ngành và DN thực hiện tái cơ cấu theo hướng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và tập trung phát triển các lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học công nghệ và giá trị gia tăng cao như công nghệ thông tin, truyền thông, tài chính - ngân hàng, vận tải, logistics, du lịch, thương mại, phân phối... Nhờ đó, tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt khá cao liên tục trong 3 năm qua.