Phân tích chi tiết về tổng lượng phát thải hiện nay
Việc thiết lập và vận hành hệ thống báo cáo kiểm kê khí nhà kính trực tuyến ở cấp cơ sở là rất quan trọng. Đây cũng là thách thức không nhỏ đối với Việt Nam do còn hạn chế về nhận thức, năng lực kỹ thuật ở cơ sở và cấp địa phương.
Thỏa thuận Paris năm 2015 yêu cầu phân tích chi tiết dữ liệu kiểm kê khí thải trong các lĩnh vực khác nhau như năng lượng, nông nghiệp, sử dụng đất, lâm nghiệp, quản lý chất thải và quy trình công nghiệp. Các quốc gia dần dần được yêu cầu kiểm soát ít nhất 85% tổng lượng phát thải quốc gia từ các nguồn trong phạm vi của các lĩnh vực này.
Việc xác định khu vực kiểm kê là cơ sở để các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp rà soát, hoàn thiện cơ sở dữ liệu hiện có nhằm đáp ứng nhu cầu kiểm kê khí nhà kính đặc thù của ngành. Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT), cho biết, theo quy định tại Nghị định 06/2022/NĐ-CP của Chính phủ về giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone, cơ sở có tên trong danh mục kiểm kê phải lập và gửi báo cáo kiểm kê khí nhà kính cho cơ quan có thẩm quyền để đánh giá, giám sát phát thải.
Vì vậy, việc thiết lập và vận hành hệ thống báo cáo kiểm kê khí nhà kính trực tuyến ở cấp cơ sở là rất quan trọng. Đây cũng là thách thức không nhỏ đối với Việt Nam do còn hạn chế về nhận thức, năng lực kỹ thuật ở cơ sở và cấp địa phương.
Việt Nam cam kết mạnh mẽ đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Bộ TNMT đã dự thảo quyết định để Thủ tướng Chính phủ ban hành bản kiểm kê cập nhật về các ngành và cơ sở cần thiết để tiến hành kiểm kê khí nhà kính.
Tổng số cơ sở được liệt kê trong bản kiểm kê cập nhật là 2.893 (tăng 981 cơ sở, tăng 51,3% so với năm 2022), ước tính chiếm khoảng 34,5% tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn quốc. Đây là những cơ sở có lượng phát thải khí nhà kính cao ở tất cả các lĩnh vực cần quản lý chặt chẽ phát thải, thực hiện các hoạt động giảm phát thải từ nay đến năm 2030, đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được mục tiêu giảm phát thải quốc gia đặt ra vào năm 2030.
Trong lĩnh vực sản xuất và công nghiệp, có 2.261 cơ sở, bao gồm các nhà máy điện và cơ sở công nghiệp có mức tiêu thụ năng lượng hàng năm từ 1.000 TOE trở lên (tăng 599 cơ sở so với năm 2022).
Trong lĩnh vực giao thông vận tải, có 81 cơ sở, trong đó có các doanh nghiệp vận tải hàng hóa được Bộ GTVT rà soát, đề xuất đưa vào kiểm kê, có tổng mức tiêu thụ năng lượng hàng năm từ 1.000 TOE trở lên (tăng 11 cơ sở so với năm 2022).
Trong lĩnh vực xây dựng, có 140 cơ sở, bao gồm các công ty sản xuất xi măng và tòa nhà thương mại có mức tiêu thụ năng lượng hàng năm từ 1.000 TOE trở lên (tăng 36 cơ sở so với năm 2022).
Trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường, có 70 cơ sở xử lý chất thải rắn với công suất hoạt động hàng năm từ 65.000 tấn trở lên (giảm 6 cơ sở so với năm 2022).
Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn có 341 cơ sở hoạt động chăn nuôi với lượng phát thải khí nhà kính hàng năm ước tính từ 3.000 tấn CO2 tương đương trở lên.
Bộ TN&MT nhận định, hiện nay, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn của Việt Nam, đặc biệt là ngành chăn nuôi đã phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch COVID-19, chiếm tỷ trọng ngày càng đáng kể trong tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn quốc. Tuy nhiên, danh mục tại Quyết định 01/2022/QĐ-TTg không bao gồm các cơ sở này trong lĩnh vực này. Để đạt được mục tiêu quản lý phát thải khí nhà kính cho toàn bộ nền kinh tế, việc bổ sung các cơ sở trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn vào các cơ sở cần thiết để tiến hành kiểm kê khí nhà kính phù hợp.
Việc Thủ tướng chính phủ ban hành bản kiểm kê cập nhật các ngành, cơ sở được yêu cầu thực hiện kiểm kê khí nhà kính là cần thiết để thực hiện các quy định của Luật Bảo vệ môi trường, góp phần thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu. Thay đổi và giảm phát thải khí nhà kính thể hiện nỗ lực của chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu.