Tăng thuế để đảm bảo nguồn chi bảo vệ môi trường

Theo: thoibaotaichinhvietnam.vn

Trao đổi với phóng viên TBTCVN, ông Phạm Đình Thi, Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài chính khẳng định, đến thời điểm hiện nay, cần thiết phải sửa đổi biểu thuế bảo vệ môi trường (BVMT).

Xăng đề xuất tăng mức thuế từ 3.000 đồng/lít lên mức 4.000 đồng/lít.
Xăng đề xuất tăng mức thuế từ 3.000 đồng/lít lên mức 4.000 đồng/lít.

Việc sửa đổi biểu thuế nằm trong khung thuế do Quốc hội quy định; phù hợp nguyên tắc quy định mức thuế BVMT cụ thể Luật Thuế BVMT và bảo lợi ích quốc gia trong điều kiện hội nhập quốc tế khi Việt Nam đã và đang tham gia 11 FTA (Hiệp định Tự do thương mại).

PV: Thưa ông, Bộ Tài chính đang dự thảo nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) về biểu thuế BVMT, trong đó có nội dung điều chỉnh tăng mức thuế đối với mặt hàng xăng từ 3.000 đồng/lít lên mức trần 4.000 đồng/lít. Xin ông cho biết, nguyên nhân vì sao Bộ Tài chính đưa ra đề xuất này?

- Ông Phạm Đình Thi: Luật Thuế BVMT có hiệu lực từ 1/1/2012 và thuế BVMT thu với 8 loại hàng hóa, trong đó xăng dầu là 1 trong 8 loại hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế.

Ông Phạm Đình Thi
Ông Phạm Đình Thi

Thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, trong đó đã đề ra giải pháp: “Tập trung cơ cấu lại nguồn thu; tăng tỷ trọng thu nội địa, bảo đảm tỷ trọng hợp lý giữa thuế gián thu và thuế trực thu, khai thác tốt thuế thu từ tài sản, tài nguyên, bảo vệ môi trường”.

Thực hiện Nghị quyết số 25/2016/QH14 ngày 9/11/2016 của Quốc hội về kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016 - 2020, trong đó đã đề ra một trong các giải pháp thực hiện là: “Thực hiện các giải pháp điều chỉnh chính sách thu theo hướng mở rộng cơ sở thuế, điều chỉnh phạm vi, đối tượng; rà soát, thu hẹp diện miễn, giảm thuế”.

Tại Phiên họp lần thứ 14 ngày 13/9/2017 của UBTVQH cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế BVMT, ngoài các ý kiến đề nghị nghiên cứu bổ sung đối tượng chịu thuế BVMT (mở rộng diện, đưa thêm một số hàng hóa vào đối tượng chịu thuế để hướng tới phát triển bền vững)..., cũng có ý kiến đề nghị cân nhắc tăng thuế BVMT lên mức trần của khung Quốc hội quy định.

Tại Thông báo kết luận Phiên họp thứ 14 của UBTVQH (Thông báo số 1135/TB-TTKQH ngày 26/9/2017) đã nêu: (i) Chính phủ hoàn thiện thêm dự án Luật để trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 5, tháng 5/2018; (ii) Trong trường hợp cần thiết, Chính phủ trình UBTVQH xem xét, quyết định điều chỉnh mức thuế BVMT là mức trần của khung Quốc hội quy định.

Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo (tại Thông báo số 409/VPCP-KTTH ngày 11/01/2018) giao Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Tư pháp và các bộ, ngành, địa phương trình Chính phủ lập Hồ sơ đề nghị xây dựng dự án nghị quyết của UBTVQH ngay trong năm 2018 về Biểu thuế BVMT để điều chỉnh mức thuế BVMT đối với hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật thuế BVMT. Khoản 2 Điều 8 Luật Thuế BVMT quy định nguyên tắc quy định mức thuế BVMT cụ thể như sau: Mức thuế đối với hàng hóa chịu thuế phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ và được xác định theo mức độ gây tác động xấu đến môi trường của hàng hóa.

Thực hiện các quan điểm, chủ trương trên và để phát triển kinh tế - xã hội bền vững gắn với BVMT, Bộ Tài chính đề xuất điều chỉnh mức thuế đối với một số hàng hóa, trong đó có xăng dầu.

Đề xuất này nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia trong điều kiện hội nhập sâu khi thực hiện cắt giảm dần thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế. Việt Nam cam kết quy định mức thuế nhập khẩu trần (tối đa) là 40% đối với xăng - mức thuế MFN theo quy định tại biểu thuế hiện hành là 20% đối với xăng và 7% đối với dầu các loại. Việt Nam đã và đang tham gia 11  FTA (trong đó Hiệp định ASEAN - Hồng Kông vừa ký kết cuối năm 2017, có hiệu lực từ 01/01/2019). Mức thuế nhập khẩu ưu đãi nhất đối với xăng, dầu giảm về 0%.

Giá  bán lẻ xăng, dầu ở Việt Nam hiện đang ở mức thấp so với các nước có chung đường biên giới, trong ASEAN và châu Á. Đứng thứ vị trí 45 từ thấp đến cao trong tổng số 167 quốc gia (thấp hơn 122 nước); thấp hơn Lào là 5.304 đồng/lít, Campuchia là 2.988 đồng/lít, Trung Quốc là 1.650 đồng/lít); thấp hơn Singapore là 18.560 đồng/lít, Philippines là 3.892 đồng/lít, Hồng Kông là 27.974 đồng/lít.

Xăng dầu là sản phẩm có chứa nhiều chất gây ô nhiễm môi trường như chì, lưu huỳnh, benzen, hydrocacbon thơm, hydrocacbon nặng và một số phụ gia... Đây là những chất gây hại đến an toàn, sức khỏe và môi trường. Trong đó, tiếp xúc với chất chì, benzen trong một thời gian nhất định có thể tiềm ẩn nguy cơ ung thư. Do đó, cần thiết điều chỉnh nâng mức thuế BVMT đối với xăng dầu nhằm nâng cao hơn nữa trách nhiệm và nhận thức của tổ chức, cá nhân đối với môi trường, khuyến khích sản xuất, sử dụng sản phẩm thay thế, thân thiện với môi trường (như xăng dầu sinh học).

PV: Bộ Tài chính đã tính toán những tác động của việc tăng thuế ra sao để hạn chế tối đa ảnh hưởng tới người dân và doanh nghiệp, thưa ông?

- Ông Phạm Đình Thi: Thuế BVMT là một sắc thuế mới trong hệ thống thuế (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2012). Luật Thuế BVMT quy định khung thuế đối với từng hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế và quy định giao UBTVQH căn cứ vào Biểu khung thuế tại luật để quy định mức thuế cụ thể đối với từng loại hàng hóa chịu thuế đảm bảo nguyên tắc: (i) Mức thuế đối với hàng hóa chịu thuế phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ, (ii) Mức thuế đối với hàng hóa chịu thuế được xác định theo mức độ gây tác động xấu đến môi trường của hàng hóa. Để doanh nghiệp và người dân từng bước điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu dùng hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế, tại thời điểm Luật Thuế BVMT có hiệu lực, UBTVQH đã quy định mức thuế thấp trong khung thuế đối với đa số các nhóm hàng hóa (6/8 nhóm hàng hóa áp dụng mức thuế tối thiểu trong khung thuế) và tăng dần trong quá trình thực hiện để đảm bảo phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng giai đoạn. 

Việc đề xuất điều chỉnh mức thuế đối với từng hàng hóa chịu thuế là phù hợp với khung thuế BVMT và các nguyên tắc quy định mức thuế BVMT cụ thể quy định tại Luật Thuế BVMT. 

Mặc dù việc tăng mức thuế BVMT đối với các hàng hóa sẽ tác động đến giá bán của các hàng hóa, tuy nhiên, sẽ khuyến khích sử dụng năng lượng, tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả; góp phần khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hóa thân thiện với môi trường (xăng E5, túi ni lông thân thiện với môi trường). Từ đó, sẽ giảm phát thải ô nhiễm môi trường, góp phần vào thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về BVMT. 

PV: Trên thực tế, nhiều nước cũng đã thực hiện điều chỉnh chính sách thuế theo hướng tăng và mở rộng đối tượng để đảm bảo nguồn thu. Bên cạnh đó, dư luận cũng quan tâm đến việc sử dụng nguồn thu từ thuế BVMT. Ông có thể chia sẻ thêm về vấn đề này?

- Ông Phạm Đình Thi: Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nhiều nước đã nghiên cứu điều chỉnh chính sách thuế theo hướng tăng và mở rộng đối tượng để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách. Các nước đã sử dụng chính sách thuế nội địa để thay thế cho thuế nhập khẩu phải cắt giảm theo các cam kết quốc tế. Quỹ Tiền tệ quốc tế cũng đã khuyến nghị các nước sử dụng thuế nội địa để thực hiện các phương án cắt, giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế. 

Trên thực tế, nhiều năm nay,  chi cho BVMT luôn cao hơn số thuế thu được. Nhiệm vụ chi cho BVMT từ NSNN tăng dần trong giai đoạn 2012 - 2016. Tổng chi NSNN cho các nhiệm vụ BVMT giai đoạn này khoảng 131.857 tỷ đồng, bình quân khoảng 26.371 tỷ đồng/năm, cao hơn số thu thuế BVMT là 21.197 tỷ đồng.

Theo Luật NSNN, tất cả nguồn thu từ thuế đều tập trung vào NSNN và được phân bổ chi cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo dự toán Quốc hội quyết định hàng năm, trong đó có thực hiện nhiệm vụ cho  BVMT.

PV: Xin cảm ơn ông!