Thị trường chứng khoán xanh và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam hiện nay

TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV

Từ Hội nghị Thượng đỉnh về biến đổi khí hậu lần thứ 26 của Liên Hợp quốc (COP26), Việt Nam đã cam kết sẽ đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 và tiếp tục tái khẳng định điều này tại COP28 cuối năm 2023. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới tại Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển năm 2022, ước tính giá trị của nhu cầu đầu tư thêm vào các giải pháp thích ứng và giảm tác động của biến đổi khí hậu tại Việt Nam từ nay đến 2040 là khoảng 368 tỷ USD (tương đương 20 tỷ USD/năm), giống như nhiều quốc gia đang phát triển có điều kiện tự nhiên tương đồng. Chính vì vậy, phát triển thị trường chứng khoán xanh sẽ là xu hướng tất yếu của Việt Nam trong giai đoạn tới. Bài viết tập trung vào tìm hiểu thực trạng thị trường chứng khoán xanh, từ đó, phân tích thuận lợi, khó khăn, hạn chế cho thị trường để đưa ra gợi ý giải pháp cho giai đoạn tới.

Thị trường trái phiếu xanh

Tháng 01/2016, Bộ Tài chính đã phê duyệt Đề án phát hành thí điểm trái phiếu xanh của doanh nghiệp (DN), chính quyền địa phương. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2016-2020, mới có 4 đợt phát hành trái phiếu xanh, với giá trị khoảng 284 triệu USD.

Tháng 4/2021, Việt Nam đã ban hành Sổ tay hướng dẫn phát hành Trái phiếu Xanh, Trái phiếu Xã hội và Trái phiếu Bền vững theo các tiêu chuẩn của ASEAN và của Hiệp hội Thị trường vốn Quốc tế (ICMA)... Từ đó, một số DN và tổ chức tín dụng (TCTD) lớn tại Việt Nam đã tiếp cận nguồn vốn thị trường quốc tế với việc tiên phong tham gia phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), tập trung ở các lĩnh vực thủy lợi, nông nghiệp, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, tài chính – ngân hàng, nhưng còn khá khiêm tốn.

Theo Bộ Tài chính, trong giai đoạn 2019-2023, Việt Nam đã phát hành khoảng 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho biết, thị trường trái phiếu bền vững Việt Nam tính đến quý I/2024 đạt quy mô khoảng 800 triệu USD, bao gồm trái phiếu xanh và các công cụ trái phiếu bền vững do các DN phát hành riêng lẻ, ngắn hạn. Mặc dù quy mô còn nhỏ, nhưng trái phiếu xanh đang ghi nhận sự quan tâm ngày càng tăng đối với các công cụ tài chính bền vững và các sáng kiến xanh trong DN. Hơn nữa, thị trường TPDN tại Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển với sự quan tâm ngày càng tăng của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các công ty bảo hiểm, công ty quản lý quỹ đang tích cực đầu tư trên thị trường TPDN xanh, bền vững tại Việt Nam. Trong giai đoạn 2020-2023, tổng khối lượng trái phiếu IFC đầu tư đạt gần 5.000 tỷ đồng với những giao dịch tiêu biểu như trái phiếu của CTCP Nông nghiệp BAF Việt Nam, CTCP Đầu tư Nam Long, HDBank… Các công ty bảo hiểm quốc tế như: AIA, Prudencial, Manulife, và các tổ chức quốc tế như WB, ADB, IFC… đều có định hướng ưu tiên phát triển các dự án có ích lợi cho môi trường như năng lượng tái tạo, vận tải xanh, bất động sản xanh.

Tuy nhiên, thị trường trái phiếu xanh còn gặp các hạn chế, khó khăn sau:

Một là, còn thiếu các hướng dẫn chi tiết của các cơ quan chức năng, đặc biệt là thiếu thông tin, tiêu chí về dự án xanh, về xã hội và môi trường tại Việt Nam; cơ chế quản lý, giám sát việc sử dụng nguồn vốn xanh huy động từ trái phiếu, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan…

Hai là, nhận thức, hiểu biết và hành động cụ thể của các bên liên quan (cơ quan quản lý, chủ thể phát hành, nhà đầu tư, tổ chức trung gian…) về ưu tiên phát triển trái phiếu xanh còn hạn chế.

Ba là, khung pháp lý, hạ tầng công nghệ thông tin, nền tảng nhà đầu tư… trên thị trường TPDN còn chưa hoàn thiện, chưa theo kịp, trong khi niềm tin bị suy giảm bởi các vụ việc sai phạm trên thị trường thị trường chứng khoán (TTCK) và bất động sản.

Bốn là, Việt Nam chưa có các chính sách khuyến khích DN phát hành và đầu tư trái phiếu xanh.

Năm là, kinh tế khó khăn (nhất là những năm dịch bệnh và suy giảm) khiến ưu tiên đầu tư phát triển bền vững, chủ động thích ứng biến đổi khí hậu bị thay đổi, có chỗ bị giảm đi.

Thị trường cổ phiếu xanh

Việt Nam đang từng bước thực hiện theo Sáng kiến Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) bền vững (Sustainable Stock Exchanges Initiative – SSE) được thành lập vào năm 2009. Theo khung hoạt động của SSE, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đã thực hiện một số nội dung: (i) Thực hiện đào tạo về các yếu tố xã hội, môi trường và quản trị (ESG) trong quản trị công ty. Từ năm 2012, UBCKNN phối hợp với IFC, Tổ chức Sáng kiến báo cáo toàn cầu (GRI), HNX và HOSE triển khai nhiều chương trình đào tạo nâng cao năng lực cho các công ty niêm yết về công bố các thông tin liên quan đến ESG; (ii) Hướng dẫn DN thực hiện báo cáo ESG (Sổ tay hướng dẫn thực hiện báo cáo ESG cho các DN niêm yết đã được ban hành năm 2016, Sổ tay Hướng dẫn Báo cáo phát thải khí nhà kính năm 2023); (iii) Các công ty niêm yết phải công bố phát triển bền vững từ năm 2016, có thể lập riêng báo cáo phát triển bền vững hoặc trình bày tích hợp trong báo cáo thường niên.

Chỉ số phát triển bền vững (VNSI) đã được vận hành từ năm 2017 nhưng chưa mang nhiều ý nghĩa. VNSI bao gồm 20 công ty niêm yết có điểm bền vững cao nhất trên HOSE, được chọn từ 100 DN niêm yết lớn nhất và được đánh giá toàn diện trên 3 khía cạnh của ESG. Đến nay, tăng trưởng về lợi nhuận của các DN trong bộ chỉ số VNSI cho thấy hiệu quả cao hơn so với bình quân của VN-Index.

Tuy nhiên, VNSI chưa thực sự phổ biến với thị trường, chưa trở thành thước đo giúp nhà đầu tư lựa chọn chứng khoán nên cũng chưa mang nhiều ý nghĩa với DN, nhà đầu tư. Đồng thời, các công ty niêm yết đang dần đưa ESG vào định hướng kinh doanh và quản trị doanh nghiệp. Theo PricewaterhouseCoopers (2023), 44% DN Việt Nam đã bắt tay thực hiện một phần ESG, 80% DN đã có kế hoạch để xác định/thực hiện các cam kết ESG, 36% đang trong giai đoạn lập kế hoạch ESG cho 2 – 4 năm tới. Bên cạnh đó, 96% DN niêm yết xác định việc thực hiện ESG là mục tiêu bền vững quan trọng, giúp định hướng phát triển cho tương lai, trong đó, phần lớn các công ty được nghiên cứu đã thiết lập các mục tiêu ESG ngắn hạn và trung hạn (lần lượt là 84% và 70%). Tuy nhiên, mới có 8% DN niêm yết công bố các mục tiêu giảm phát thải và mới có 35% thực hiện các cam kết và kế hoạch ESG.

Các DN ngày càng chú trọng lập báo cáo phát triển bền vững riêng biệt. Trong đó, số lượng công ty áp dụng mô hình ủy ban ESG thuộc Hội đồng quản trị ngày càng nhiều hơn, một số công ty bắt đầu có cam kết mục tiêu giảm phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) với các mốc thời gian cụ thể như Vinamilk, Gemadept hay được xếp hạng cao trong việc ESG. Trong lĩnh vực tài chính, một số định chế tài chính đã tiên phong thực hiện báo cáo phát triển bền vững (lồng ghép hoặc riêng biệt) như Tập đoàn Bảo Việt (theo các tiêu chuẩn quốc tế của Dow Jones), BIDV, ACB…

Tuy nhiên, số lượng công ty lập báo cáo phát triển bền vững riêng biệt còn ít và chưa phải là bắt buộc, chưa thực sự công khai, minh bạch, cũng như các mục tiêu ESG được đưa ra còn khá chung chung. Đồng thời, có thể sẽ tiềm ẩn nguy cơ xuất hiện hiện tượng lợi dụng nhãn mác xanh nhưng không thực sự vì môi trường (Green washing).

Kinh nghiệm quốc tế

Hình 1: Diễn biến chỉ số VN-index và VNSI giai đoạn 7/2017-6/2024 .Nguồn: Bloomberg
Hình 1: Diễn biến chỉ số VN-index và VNSI giai đoạn 7/2017-6/2024 .
Nguồn: Bloomberg

Bảng 1: Phát triển tài chính xanh ở Trung Quốc

Thời gian

Tên quy định

Đơn vị ban hành

Nội dung chính

Tháng 9/2016

Hướng dẫn thiết lập hệ thống tài chính xanh

PBoC

Hướng dẫn khuyến khích vốn tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực xanh và hạn chế các khoản đầu tư có thể gây ô nhiễm môi trường. Các chính sách hỗ trợ như giảm lãi suất thông qua tái cấp vốn và bảo lãnh, thành lập quỹ phát triển xanh quốc gia, giúp giảm chi phí cho nhà đầu tư.

Tháng 3/2017

Hướng dẫn hỗ trợ phát triển trái phiếu xanh

UBCK Trung Quốc

Hướng dẫn khuyến khích bảo lãnh, cơ chế tăng khả năng tiếp cận tín dụng, yêu cầu công bố thông tin và chứng nhận của bên thứ ba để thiết lập thị trường trái phiếu xanh.

Tháng 1/2018

Chính sách hỗ trợ phát triển xanh của doanh nghiệp tư nhân

Liên đoàn Công nghiệp và Thương mại Trung Quốc

Đề xuất thành lập quỹ phát triển xanh quốc gia, khuyến khích quỹ phát triển xanh địa phương, cải tiến bảo hiểm trách nhiệm môi trường, tăng cường cơ chế đánh giá ảnh hưởng của môi trường trong hoạt động tín dụng và khuyến khích doanh nghiệp tư nhân thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm môi trường.

Tháng 7/2018

Hướng dẫn đầu tư xanh (thử nghiệm)

Hiệp hội quản lý tài sản Trung Quốc (AMAC)

Hướng dẫn khung tham chiếu cho việc công bố thông tin môi trường của các DN niêm yết và xây dựng hệ thống tự đánh giá cho đầu tư xanh.

Tháng 7/2020

Kế hoạch đánh giá hiệu quả tài chính xanh của các TC tài chính

PBoC

Chính sách khuyến khích và tăng cường quản lý tài chính xanh trong lĩnh vực ngân hàng

Tháng 8/2021

Hướng dẫn công bố thông tin môi trường của các TC Tài chính

PBoC

PBOC ban hành tiêu chuẩn công bố thông tin tài chính xanh đầu tiên của Trung Quốc. Tiêu chuẩn sẽ được quản lý bởi Ủy ban Kỹ thuật Tiêu chuẩn hóa Tài chính Trung Quốc (CFSTC).

Tháng 9/2021

Danh mục các dự án được đầu tư bằng trái phiếu xanh

PBoC

Danh mục loại bỏ một số hoạt động sử dụng nhiều carbon liên quan đến than đá, năng lượng đốt than và thiết bị thăm dò dầu khí, giúp tạo sự thống nhất các tiêu chuẩn trong nước đối với trái phiếu xanh.

Nguồn: https://www.china-briefing.com/

 

Phát triển tài chính xanh, trong đó có chứng khoán xanh hiện nay là một trong những ưu tiên của nhiều quốc gia với nhiều cách làm, kinh nghiệm hay để Việt Nam có thể tham khảo, học hỏi.

Tại Trung Quốc, chính sách tài chính xanh bắt đầu được triển khai từ năm 2015. Trung Quốc đang nỗ lực phát triển và tiêu chuẩn hóa thị trường tài chính xanh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi sang phát triển bền vững và chất lượng cao (Bảng 1).Theo đó, Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu khả quan; trong đó, trái phiếu xanh được phát hành từ năm 2016, 59% phục vụ nhiều mục đích (như vận tải, sản xuất năng lượng và tiết kiệm năng lượng), trong khi 13% được phát hành riêng cho các dự án năng lượng sạch và 11% dành cho giao thông sạch…

Tại Malaysia (quốc gia đã thành công với việc phát triển hệ sinh thái tài chính xanh) thị trường chứng khoán (TTCK) xanh được đẩy mạnh phát triển theo mô hình 5Is (được đưa ra từ năm 2014) với các cấu phần về: (i) Mở rộng các công cụ thị trường vốn (Instruments); (ii) Gia tăng nền tảng nhà đầu tư (Investors); (iii) Xây dựng hệ sinh thái các tổ chức phát hành (Issuers); (iv) Xây dựng văn hóa quản trị nội bộ rủi ro môi trường trong tổ chức (Internal governance culture); (v) Dựng hạ tầng thông tin hỗ trợ (Information).

Tại Thổ Nhĩ Kỳ, các sáng kiến tài chính xanh ban đầu chủ yếu tập trung vào đầu tư vào năng lượng tái tạo và chủ yếu được tài trợ bằng các khoản vay ngân hàng. Đặc biệt là nhờ tăng nhanh sản xuất năng lượng tái tạo và mở rộng cơ sở hạ tầng xử lý chất thải, hàng nghìn tòa nhà, khu dân cư và DN đã thực hiện các chương trình tái chế và hơn 57.000 tấn chất thải đã được loại bỏ khỏi các vùng biển của đất nước. Theo Ngân hàng Thế giới, quốc gia này – tương tự như Việt Nam, cần xây dựng được chiến lược tổng thể về tài chính xanh hoặc bền vững, cũng như định hướng thực hành ESG, thiết lập khung pháp lý quốc gia về tài chính bền vững.

Định hướng và giải pháp cho thị trường chứng khoán Việt Nam

Định hướng, chiến lược và chính sách phát triểnbền vững và tăng trưởng xanh của Việt Nam

Định hướng tăng trưởng xanh của Việt Nam đã được đề ra từ sớm với những chính sách liên tục được cập nhật và hoàn thiện. Cụ thể: Chương trình mục tiêu quốc gia chống biến đổi khí hậu (2008); Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2011–2020 và tầm nhìn đến năm 2050 (2012); Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn (2022), Quy hoạch điện VIII (2023)… Trong đó, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 được ban hành tháng 10/2021 đã đề ra các chỉ tiêu, kế hoạch về môi trường tại Việt Nam trong dài hạn.

Để tiếp tục định hướng phát triển bền vững, Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn (KTTH) ở Việt Nam đã được phê duyệt theo Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 7/6/2022. Mục tiêu cụ thể nhằm hiện thực hóa các cam kết tại COP26 với tiêu chí giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP ít nhất 15% vào năm 2030 so với năm 2014, hướng tới mục tiêu NetZero vào năm 2050. Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng KTTH thúc đẩy xanh hóa các ngành kinh tế.

Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán xanh tại Việt Nam

Việt Nam cần có một chiến lược tổng thể để phát triển TTCK xanh một cách hài hòa, hiệu quả giữa các kênh dẫn vốn, gắn với các định hướng, mục tiêu phát triển KTXH. Theo kinh nghiệm của quốc tế, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp sau:

Một là, kiên định, nhất quán triển khai thành công các định hướng chiến lược về phát triển KTTH, kinh tế xanh, Quy hoạch điện VIII… Trong đó, xác định các lĩnh vực ưu tiên phát triển xanh trước như năng lượng, giao thông vận tải, sản xuất công – nông nghiệp, du lịch...

Hai là, hoàn thiện khung chính sách cho phát triển TTCK xanh và thị trường tín chỉ cácbon. Các chính sách liên quan đến TTCK xanh và thị trường tín chỉ carbon cần sớm được ban hành cụ thể song song hoặc lồng ghép với những chính sách về tăng trưởng xanh, KTTH, chuyển đổi năng lượng và ứng phó biến đổi khí hậu... Theo đó, có thể tham khảo Chiến lược/Mô hình 5Is của Malaysia như nêu trên; đồng thời lưu ý có các quy định, điều kiện khi niêm yết cổ phiếu xanh, báo cáo bền vững và giám sát doanh nghiệp theo các tiêu chí xanh…

Ba là, có cơ chế, chính sách để thu hút nguồn vốn (cả Nhà nước và tư nhân) cho đầu tư xanh bằng cách ban hành các chính sách miễn giảm thuế, phí, lệ phí, lãi suất và hỗ trợ các chi phí liên quan đến phát hành trái phiếu xanh; đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong quá trình phát hành trái phiếu xanh. Nghiên cứu thành lập Quỹ phát triển xanh (tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc); nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường, Quỹ KHCN…

Bốn là, Chính phủ sớm ban hành bộ tiêu chí về dự án xanh, công trình xanh, công sở xanh…; cập nhật các tiêu chí trái phiếu xanh cho phù hợp với mục tiêu mới, bối cảnh mới và theo thông lệ quốc tế (ít nhất là tiêu chuẩn ASEAN).

Năm là, hoàn thiện chính sách, đơn giản hóa thủ tục và khuyến khích các tổ chức trong nước tham gia vào quá trình xác nhận, chứng nhận khung dự án xanh, trái phiếu xanh và dán nhãn dự án xanh, trái phiếu xanh theo các tiêu chuẩn quốc tế.

Sáu là, quan tâm phát triển hạ tầng cho TTCK nhằm: (i) Tạo lập hệ sinh thái về huy động vốn và phân bổ vốn của nền kinh tế, của DN và nhà đầu tư; (ii) Góp phần nâng hạng TTCK; (iii) Kiểm soát rủi ro liên thông giữa ngân hàng – chứng khoán – Bất động sản…, trong đó cần tham khảo mô hình 5Is của Malaysia như nêu trên, nâng cấp hạ tầng CNTT, dữ liệu, an ninh mạng, bảo vệ người tiêu dùng tài chính, giáo dục tài chính…

Bảy là, chính sách, giải pháp để trực tiếp hoặc hỗ trợ các DN và các tổ chức tài chính tiếp cận các nguồn tài chính xanh quốc tế, các chương trình đào tạo, trao đổi kinh nghiệm quốc tế về tăng trưởng xanh và tài chính xanh (thông qua tiết giảm qui trình, thủ tục hành chính trong khâu lập, phê duyệt và giải ngân đề án, chương trình; ban hành bộ tiêu chí dự án xanh, công trình xanh và qui trình liên quan một cách kịp thời, dễ hiểu, dễ áp dụng…)

Tám là, bản thân DN, tổ chức tài chính cần có kế hoạch, chiến lược phát triển xanh, phát triển bền vững, xây dựng văn hóa xanh, chủ động lập báo cáo ESG, báo cáo phát triển bền vững; đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ nhân lực liên quan, nhất là các bộ phận liên quan đến tài chính xanh, quản lý rủi ro môi trường – xã hội và ESG.

Tài liệu tham khảo:

  1. H. Mạnh và T. Hiền (2023), Thực thi ESG trong ngành Ngân hàng - Xu hướng tất yếu để phát triển bền vững. https://tapchinganhang.gov.vn/thuc-thi-esg-trong-nganh-ngan-hang-xu-huong-tat-yeu-de-phat-trien-ben-vung.htm;
  2. Mai Đan (2023), COP28 và những cam kết, tuyên bố lớn. https://baotainguyenmoitruong.vn/cop28-va-nhung-cam-ket-tuyen-bo-lon-368035.html;
  3. PwC (2023a), ESG trends in 2023. https://www.pwc.com.au/important-problems/esg/2023-esg-trends.pdf;
  4. Tuệ Anh (2023), Ra mắt Sổ tay Hướng dẫn báo cáo phát thải khí nhà kính. https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh?dDocName=MOFUCM284101.
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 7/2024