Thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng


Trong thời gian qua, vấn đề tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp tục trở thành vấn đề thời sự, được bàn đến trên nhiều diễn đàn, thu hút được sự quan tâm lớn của dư luận, của các nhà khoa học.

Khả năng tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của các nhân tố bên trong và bên ngoài
Khả năng tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của các nhân tố bên trong và bên ngoài

Bài viết đề cập đến một số vấn đề lý thuyết cơ bản và kinh nghiệm của một số nước phát triển, một số nước trong khu vực Đông Nam Á về đẩy mạnh tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị đối với Việt Nam hiện nay.

Một số góc nhìn về mặt lý thuyết tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp nhỏ và vừa

Về nguyên lý cũng như thực tiễn, khả năng tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp (DN) chịu ảnh hưởng của các nhân tố bên trong và bên ngoài. Hay có thể hiểu, khả năng tiếp cận nguồn vốn vay của DN là khả năng DN có thể đáp ứng được các điều kiện vay vốn theo quy định của các tổ chức tín dụng tại mức lãi suất phù hợp và tổ chức tín dụng sẵn sàng cho vay. Khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có thể chia thành ba nhóm chính sau đây:

Nhóm các nhân tố thuộc về DNNVV gồm: Năng lực của lãnh đạo DN và đội ngũ cố vấn; Mối quan hệ của DN; Tài sản đảm bảo; Khả năng trả nợ của DN; Sự minh bạch tài chính của DN; Lịch sử vay nợ của DN.

Nhóm các nhân tố thuộc về NHTM có thể kể đến như: Chính sách tín dụng đối với DNNVV; các khoản chi phí DNNVV phải trả để có được quyền sử dụng vốn của NHTM (trong đó bao gồm lãi suất và các chi phí khác có liên quan).

Nhóm các nhân tố khác như: Tính ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô; tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế; Sự quan tâm hỗ trợ của chính quyền địa phương.

Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến cuối năm 2020, Việt Nam có khoảng 800.000 DN đang hoạt động, trong đó 98% là DNNVV, thu hút hơn 5,6 triệu lao động. Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của khu vực DNNVV, thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ cho DNNVV phát triển sản xuất, kinh doanh, nhất là vấn đề tiếp cận nguồn vốn tín dụng.

Ngoài ra, một số nhân tố khác cũng ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của DNNVV như vị trí kinh doanh của DNNVV, thái độ phục vụ khách hàng của NHTM, mức độ cạnh tranh giữa các NHTM, đạo đức xã hội, trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh của NHTM hay yếu tố môi trường như thời tiết, bệnh dịch...

Tiếp cận và hỗ trtiếp cận vốn tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước

Nhật Bản

Tại Nhật Bản, DNNVV chiếm 99,7% (tương đương 4,21 triệu DN) tổng số DN của toàn nền kinh tế, sử dụng 70% lao động của cả nước (24,7 triệu lao động). Nhật Bản có 5 tổ chức chính thực hiện các chương trình hỗ trợ tài chính cho DNNVV gồm:

- Ngân hàng tín dụng Shinkin (thành lập năm 1951): Là tổ chức tài chính trực thuộc Bộ Tài chính do các hội viên góp vốn. Đối tượng cho vay của ngân hàng là DNNVV và cá nhân hoạt động kinh doanh.

- Ngân hàng trung ương hiệp hội công thương, Shoko Chukin (thành lập năm 1936): Khác với các ngân hàng thông thường, ngân hàng này chịu phần rủi ro nợ xấu và thực hiện cho vay đối với các DNNVV đang bị suy yếu. Đồng thời, ngân hàng thực hiện cho vay đối với các hiệp hội và cho các hiệp hội thành viên vay lại.

- Tổ chức tài chính nhân dân (thành lập năm 1949): Chủ yếu cung cấp vốn vay quy mô nhỏ cho các DN siêu nhỏ để cải thiện kinh doanh, còn gọi là cho vay dưới hình thức Marukei.

- Tổ chức tài chính DNNVV – JFC (thành lập năm 1953): Thực hiện các chính sách, chương trình hỗ trợ vốn cho DNNVV theo từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.

- Hiệp hội bảo lãnh tín dụng (thành lập chính thức năm 1965): Thực hiện bảo lãnh cho DNNVV vay vốn từ ngân hàng thương mại tư nhân. Hiện nay, có 52 Hiệp hội bảo lãnh tín dụng tại 47 địa phương trên toàn quốc.

Việc triển khai các chương trình, chính sách hỗ trợ tài chính cho DNNVV ở Nhật Bản có một số đặc điểm:

Một là, hệ thống cơ quan trợ giúp phát triển DNNVV ở Nhật Bản tương đối hoàn chỉnh và do đó, việc hỗ trợ tài chính cho DNNVV được thực hiện bởi nhiều tổ chức khác nhau, từ cấp quận đến cấp trung ương. DNNVV sẽ được tiếp cận đồng thời nhiều tổ chức tài chính để tìm kiếm khoản vay/khoản hỗ trợ phù hợp với nhu cầu. Các tổ chức hỗ trợ tài chính cho DNNVV ở Nhật Bản không chỉ cung cấp các khoản vay bằng tiền cho DNNVV mà còn thực hiện hỗ trợ DNNVV dưới các hình thức khác như cho vay thiết bị (cho DNNVV vay để mua thiết bị hoặc chính quyền địa phương sẽ đầu tư mua thiết bị để cho DNNVV thuê…), cấp bù lãi suất chênh lệch cho DNNVV khi đi vay ở các tổ chức tín dụng...

Hai là, Chính phủ Nhật Bản luôn ban hành kịp thời các chương trình, chính sách hỗ trợ tài chính cho DNNVV phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế.

Việc Chính phủ đưa ra những chương trình, chính sách hỗ trợ DNNVV với gói ngân sách tương đối lớn đã mang lại những khởi sắc và bước phát triển tương đối rõ rệt cho DNNVV trong từng giai đoạn. Ví dụ như năm 2008 khi cuộc khủng hoảng kinh tế lan rộng trên toàn thế giới, nhiều chính quyền địa phương đã hỗ trợ DNNVV được vay vốn với lãi suất 0% nhằm duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.

Ba là, tại Nhật Bản, việc cho vay không cần tài sản thế chấp tương đối phổ biến và hiệu quả: Các tổ chức tài chính Nhật Bản có thể tiến hành cho vay chỉ dựa trên tín chấp hoặc thông qua việc đánh giá phương án sản xuất kinh doanh của DN. Bên cạnh đó, chính quyền cấp quận là cơ quan nắm rõ nhất hoạt động thực tế của một DN trên địa bàn. Việc một DN trên địa bàn thực hiện nghĩa vụ thuế đầy đủ và đúng hạn được coi là bằng chứng hiệu quả chứng minh DN làm ăn tốt và những DN đó có điều kiện được hưởng ưu đãi của nhà nước.

Bốn là, sự liên kết giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ tài chính cho DNNVV rất chặt chẽ.

Hàn Quốc

Khoảng 99% DN tại Hàn Quốc có quy mô nhỏ và vừa, thu hút 88% lao động. Các DNNVV trở thành lực lượng góp phần quan trọng xác định vị thế kinh tế của Hàn Quốc trên trường quốc tế. Hàn Quốc có những chương trình sàng lọc, phân loại những DN siêu nhỏ để tìm ra được những ưu điểm riêng của từng DN, từ đó Chính phủ sẽ xây dựng những chương trình hỗ trợ như: đưa vào vườn ươm DN, hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ nguồn nhân lực, tài chính, hoặc hỗ trợ tiêu thụ hàng hóa... để các DNNVV có thể tồn tại và phát triển.

Hàn Quốc thành lập Cơ quan Quản lý DNNVV (SMBA), cơ quan này đóng vai trò tiên phong trong việc cung cấp và phát triển chính sách giúp DNNVV hoạt động hiệu quả và thiết thực hơn, đồng thời đề xuất cho Chính phủ Hàn Quốc trong việc tạo ra các công cụ, chính sách giúp DNNVV phát triển, cạnh tranh lành mạnh với các DN lớn. Bên cạnh đó, với mục đích giảm nhẹ khó khăn tài chính cho DNNVV, hệ thống hỗ trợ tài chính cho DNNVV ở Hàn Quốc được thành lập và chia theo 3 kênh chính: Quỹ bảo lãnh tín dụng Hàn Quốc, Quỹ bảo lãnh tín dụng công nghệ Hàn Quốc và Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương. Hệ thống bảo lãnh tín dụng này đã tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng dễ dàng hơn.

Một số khuyến nghị cho Việt Nam

Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến cuối năm 2020, Việt Nam có khoảng 800.000 DN đang hoạt động, trong đó 98% là DNNVV, thu hút hơn 5,6 triệu lao động. Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của khu vực DNNVV, thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ cho DNNVV phát triển sản xuất, kinh doanh, nhất là vấn đề tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Nhìn chung, cơ chế, chính sách về tín dụng và hỗ trợ vay vốn từng bước được hoàn thiện theo hướng tạo thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho khu vực DNNVV phát triển. Các cơ chế hỗ trợ tiếp cận tín dụng qua hệ thống ngân hàng thương mại cũng dần hoàn thiện, nhằm tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho DNNVV. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, khu vực DNNVV hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Cụ thể:

Một là, kênh hỗ trợ vốn theo Luật Hỗ trợ DNNVV đến nay chưa có đánh giá và chưa có kết quả chính thức được công bố sau 5 năm Luật được ban hành. Cộng đồng DNNVV có rất ít thông tin được công bố về cơ chế, chính sách hỗ trợ vốn.

Hai là, một số DNNVV chưa chủ động tiếp cận kênh hỗ trợ vốn theo Luật hỗ trợ DNNVV, một số khác chưa kiên trì tiếp cận kênh vay vốn NHTM.

Ba là, một số NHTM có vốn chủ đạo của Nhà nước chưa linh hoạt trong cơ chế bảo đảm tiền vay đối với DNNVV. Một số NHTM cổ phần lãi suất cho vay cao, lại cộng thêm một số khoản phí khác.

Bốn là, một số bộ ngành chức năng và nhiều địa phương chưa cụ thể các chính sách, biện pháp hỗ trợ DNNVV, nhiều chủ trương đưa ra có tính chất chung chung, hô khẩu hiệu, thiếu tính thực tế.

Để tháo gỡ những rào cản, giúp DNNVV tiếp cận vốn tín dụng hiệu quả để mở rộng hoạt động sản xuất-kinh doanh, một số giải pháp cần tập trung thực hiện trong thời gian tới gồm:

- Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng một số bộ ngành có liên quan sớm rà soát lại các văn bản đưới luật, hướng dẫn thi hành Luật Hỗ trợ DNNVV; rà soát lại, đánh giá thực sự khách quan các cơ quan, tổ chức được thành lập theo luật này; những vướng mắc trong thực hiên hỗ trợ DNNVV, trên cơ sở đó có biện pháp tháo gỡ, hoặc trình Chính phủ xử lý theo thẩm quyền.

- Các DNNVV chủ động tiếp cận thông tin về tín dụng, quy định về vay vốn, tăng cường xây dựng và củng cố mối quan hệ với NHTM, chính quyền địa phương và các DN khác.

- Các NHTM tiếp tục nghiên cứu, linh hoạt hơn nữa điều kiện tài sản đảm bảo tiền vay, tăng tỷ lệ cấp tín dụng so với giá trị tài sản đảm bảo. Cụ thể: Áp dụng linh hoạt điều kiện tài sản đảm bảo cho từng nhóm đối tượng khách hàng DNNVV; Tăng tỷ lệ cấp tín dụng so với giá trị tài sản đảm bảo.

Để tăng tỷ lệ cấp tín dụng so với giá trị tài sản đảm bảo, NHTM cần chú trọng các giải pháp sau:

(i) Xây dựng hệ thống thông tin về bất động sản. Phối hợp với các tổ chức môi giới, các công ty nghiên cứu thị trường xây dựng bộ dữ liệu thông tin thị trường phục vụ cho toàn hệ thống ngân hàng; Từ đó, NHTM có các cơ sở dữ liệu để xem xét rõ ràng hơn khi ra quyết định cấp tín dụng.

(ii) Việc định giá tài sản đảm bảo phải đảm bảo tính cạnh tranh và quyền lợi của DNNVV. Để áp dụng tỷ lệ tài sản đảm bảo/tổng hạn mức tín dụng một cách hợp lý, NHTM cần phân loại các DNNVV có quan hệ tín dụng. Trên cơ sở này, NHTM mở rộng tỷ lệ cho vay tín chấp đối với các DNNVV hoạt động tốt để tăng hạn mức tín dụng cho DNNVV; Đồng thời, có phương án phát triển hoạt động cho vay tín chấp, giảm gánh nặng về tài sản đảm bảo cho DNNVV.

(iii) Đối với các tài sản thế chấp là hàng hóa, máy móc thiết bị... các NHTM cần xây dựng đội ngũ cán bộ thẩm định đủ tầm để thẩm định hoặc thành lập bộ phận thẩm định các tài sản thế chấp đặc thù tập trung ở Hội sở chính. Ngoài ra, có thể thực hiện thuê đơn vị thẩm định độc lập để thẩm định các tài sản đảm bảo của DNNVV.

(iv) Tiếp tục đổi mới phương thức thẩm định tài sản đảm bảo.

Đối với các cơ quan và tổ chức ở địa phương, cần tăng cường các hoạt động tư vấn và hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho DNNVV, xây dựng mối quan hệ ngân hàng – DN trên tinh thần hợp tác hai bên cùng có lợi; phối hợp với Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước ở địa phương nắm bắt, chia sẻ thông tin, giải quyết những kiến nghị của DNNVV trong quan hệ tín dụng và các vấn đề khác có liên quan.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tài liệu Hội thảo tham vấn về mô hình cho vay trực tiếp của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;

2. Nguyễn Đào Ngọc Ánh, 2020, Nâng cao khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, Tạp chí Kinh tế và Dự báo;

3. Các website: http://www.vinasme.vn; https://vcci.com.vn; http://www. vnba.org.vn

 (*) TS. Trần Thế Sao, ThS. Phan Hồng Hạnh, ThS. Phạm Thị Phương Thảo

Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh.

(**) Bài đăng Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 10/2021.