Về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công


Việc Chính phủ ban hành Nghị định số 99/2021/NĐ-CP quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công sẽ góp phần thúc đẩy công tác quản lý, thanh toán vốn đầu tư công nói chung, cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước, nhất là sự thay đổi về quy định giảm mức vốn tạm ứng của các hợp đồng, khoản chi sử dụng vốn đầu tư công.

Ảnh minh hoạ. Nguồn: internet.
Ảnh minh hoạ. Nguồn: internet.

Nguyên tắc quản lý, thanh toán vốn đầu tư công

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 99/2021/NĐ-CP quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công. Những quy định mới này sẽ góp phần thúc đẩy công tác quản lý, thanh toán vốn đầu tư công nói chung; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước.

Theo Nghị định số 99/2021/NĐ-CP, cơ quan Kho bạc Nhà nước thực hiện nhiệm vụ kiểm soát, thanh toán vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước nước và nguồn thu hợp pháp của các cơ quan nhà nước dành để đầu tư.

Đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện kiểm soát thanh toán vốn từ nguồn thu hợp pháp dành để đầu tư của đơn vị mình. Bộ Quốc phòng, Bộ Công an căn cứ vào nhiệm vụ, phân cấp quản lý, ủy quyền cho một cơ quan làm nhiệm vụ kiểm soát, thanh toán vốn cho dự án đầu tư công bí mật Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư, dự án đầu tư công tối mật, dự án đầu tư công tuyệt mật của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an thông báo cho Bộ Tài chính.

Việc quản lý, thanh toán vốn đầu tư công cho nhiệm vụ, dự án bảo đảm đúng mục đích, đúng đối tượng, tiết kiệm, hiệu quả, đúng quy định về quản lý đầu tư công và ngân sách nhà nước của pháp luật hiện hành và quy định tại Nghị định số 99/2021/NĐ-CP.

Chủ đầu tư sử dụng vốn đầu tư công chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng vốn đúng mục đích, đúng đối tượng, tiết kiệm, hiệu quả; chấp hành đúng quy định của pháp luật về chế độ tài chính đầu tư. Chủ đầu tư sử dụng vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước phải thực hiện đúng quy định của pháp luật về chế độ chi đầu tư phát triển, chi đầu tư xây dựng cơ bản quy định tại Luật ngân sách nhà nước.

Cơ quan cấp trên của chủ đầu tư có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc các chủ đầu tư, ban quản lý dự án (gọi chung là chủ đầu tư) thuộc phạm vi quản lý thực hiện kế hoạch đầu tư công, sử dụng vốn đầu tư công đúng quy định.

Cơ quan tài chính các cấp thực hiện công tác quản lý tài chính đầu tư công trong việc chấp hành chế độ, chính sách về quản lý, thanh toán vốn đầu tư công theo quy định.

Cơ quan kiểm soát, thanh toán vốn đầu tư công có trách nhiệm kiểm soát, thanh toán vốn kịp thời, đầy đủ, đúng quy định cho các nhiệm vụ, dự án khi có đủ điều kiện thanh toán, đủ hồ sơ thanh toán theo quy định.

Đối với dự án đầu tư công tại nước ngoài, hợp đồng đã ký kết, pháp luật hiện hành của nước sở tại, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và pháp luật hiện hành của Việt Nam là căn cứ pháp lý thực hiện quản lý, tạm ứng, thanh toán vốn cho dự án đầu tư công tại nước ngoài. Cơ quan chủ quản thay mặt chủ đầu tư đề nghị và thực hiện giao dịch thanh toán vốn đầu tư công với cơ quan kiểm soát, thanh toán.

Chậm nhất trong 3 ngày làm việc, Kho bạc Nhà nước thông báo lý do từ chối thanh toán vốn đầu tư

Nghị định số 99/2021/NĐ-CP cũng quy định cụ thể thời gian cơ quan kiểm soát thanh toán phải gửi văn bản thông báo lý do từ chối thanh toán vốn đến chủ đầu tư và mức vốn tạm ứng cũng đã giảm đáng kể so với quy định trước đây.

Theo đó, Nghị định số 99/2021/NĐ- CP quy định về nguyên tắc kiểm soát, thanh toán của cơ quan kiểm soát, thanh toán (KBNN) như sau: Trường hợp hồ sơ đề nghị thanh toán của chủ đầu tư chưa đảm bảo đúng chế độ hoặc thiếu hồ sơ theo quy định thì cơ quan kiểm soát, thanh toán được phép từ chối thanh toán và chậm nhất trong vòng 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị thanh toán của chủ đầu tư, cơ quan kiểm soát, thanh toán phải có văn bản thông báo cụ thể lý do từ chối thanh toán gửi 1 lần cho chủ đầu tư để hoàn thiện, bổ sung theo quy định.

Như vậy, nguyên tắc này được quy định cụ thể hơn so với quy định trước đây về thời gian là 3 ngày làm việc. Trước đây, tại các quy định cũ chưa quy định cụ thể về thời gian, mà chỉ quy định khi phát hiện sai sót trong hồ sơ đề nghị thanh toán, cơ quan thanh toán vốn đầu tư thông báo bằng văn bản để chủ đầu tư bổ sung hoàn chỉnh hồ sơ.

Về mức vốn tạm ứng, trước đây, mức vốn tạm ứng được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 37/2015/NĐ- CP của Chính phủ quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng và Thông tư số 08/2016/TT- BTC của Bộ Tài chính quy định về quản lý, thanh toán vốn đầu tư sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước.

Theo đó, mức vốn tạm ứng tối thiểu tùy theo giá trị của từng loại hợp đồng (hợp đồng tư vấn, hợp đồng thi công xây dựng, hợp đồng cung cấp thiết bị công nghệ…) và mức vốn tạm ứng tối đa không quá 50% giá trị hợp đồng.

Tuy nhiên, tại Nghị định số 99/2021/NĐ-CP đã có điểm khác biệt cơ bản về mức vốn tạm ứng của các công việc được thực hiện thông qua hợp đồng và các công việc thực hiện không thông qua hợp đồng. Theo đó, mức tạm ứng đã giảm đáng kể so với quy định trước đây.

Trường hợp hồ sơ đề nghị thanh toán của chủ đầu tư chưa đảm bảo đúng chế độ hoặc thiếu hồ sơ theo quy định thì cơ quan kiểm soát, thanh toán được phép từ chối thanh toán và chậm nhất trong vòng 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị thanh toán của chủ đầu tư, cơ quan kiểm soát, thanh toán phải có văn bản thông báo cụ thể lý do từ chối thanh toán gửi 1 lần cho chủ đầu tư để hoàn thiện, bổ sung theo quy định.

Cụ thể, tổng mức vốn tạm ứng trên cơ sở đề nghị của chủ đầu tư đảm bảo không được vượt quá 30% giá trị hợp đồng, bao gồm cả dự phòng nếu có (đối với các công việc được thực hiện thông qua hợp đồng), và không vượt quá 30% dự toán chi phí cho khối lượng công việc thực hiện được duyệt (đối với công việc thực hiện không thông qua hợp đồng).

Nghị định số 99/2021/NĐ-CP cũng đã bổ sung thêm một số quy định về việc thu hồi tạm ứng. Cụ thể, đối với chi phí quản lý dự án, trước đây chỉ quy định 6 tháng và hết năm kế hoạch phải thu hồi tạm ứng. Hàng quý các ban quản lý dự án, chủ đầu tư trực tiếp quản lý nhiều dự án phải phân bổ chi phí quản lý dự án (khối lượng công việc hoàn thành theo dự toán) cho từng dự án gửi cơ quan kiểm soát, thanh toán làm thủ tục thu hồi vốn tạm ứng. Đối với hợp đồng mua sắm máy móc, thiết bị, căn cứ vào hợp đồng được ký kết giữa chủ đầu tư và nhà thầu, đảm bảo thu hồi hết khi khối lượng công việc hoàn thành theo hợp đồng...

(*) Trần Thị Kim Oanh

(**) Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 1+2 tháng 2/2022.