Việt Nam thu 8,6 tỷ USD từ nhận gia công, lắp ráp hàng hoá cho nước ngoài

Theo Phạm Nam/ndh.vn

Lần đầu tiên công bố số liệu thu từ gia công hàng hoá cho nước ngoài của Việt Nam, Tổng cục Thống kê cho biết năm 2016, số thu được là 8,6 tỷ USD.

Tổng cục Thống kê công bố kết quả chính thức Tổng điều tra kinh tế năm 2017. Nguồn: VnExpress.net
Tổng cục Thống kê công bố kết quả chính thức Tổng điều tra kinh tế năm 2017. Nguồn: VnExpress.net

Ngày 19/9/2018, Tổng cục Thống kê công bố kết quả chính thức Tổng điều tra kinh tế năm 2017.

Theo đó, năm 2016, doanh nghiệp Việt Nam thu được 8,6 tỷ USD từ hoạt động nhận gia công, lắp ráp hàng hóa cho nước ngoài năm 2016. Đây là năm đầu tiên số liệu về thu từ gia công hàng hoá được Tổng cục Thống kê công bố.

Tuy nhiên, theo Tổng cục Thống kê, giá trị hàng hóa sau gia công tập trung chính vào các doanh nghiệp FDI với con số 25,6 tỷ USD, tỷ trọng 78,9%. Cùng với đó, nguyên liệu nhập khẩu cho gia công của các doanh nghiệp FDI là 16,3 tỷ USD, chiếm 80,5% tổng giá trị nguyên liệu nhập khẩu.

Theo Tổng cục Thống kê, hoạt động gia công hàng hóa của Việt Nam với nguyên liệu đầu vào do đối tác nước ngoài cung cấp và sở hữu. Đây là lý do tỷ lệ giá trị nguyên liệu nhập khẩu về để gia công, lắp ráp so với tổng giá trị hàng hóa sau gia công ở mức khá cao 62,3%.

Tỷ lệ này cao nhất ở nhóm hàng điện thoại vởi 78,9%, hàng điện tử máy tính 76,4%, dệt may 67,1%, giầy dép 47% và hàng hóa khác là 74,7%.

Trong khi đó, tổng giá trị nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho quá trình gia công, lắp ráp đạt 20,2 tỷ USD, chiếm 11,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm sau gia công, lắp ráp đạt 32,4 tỷ USD, chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.

Xét về khía cạnh thu được từ hoạt động gia công, nhóm lắp ráp điện thoại thu được 268 triệu USD, chiếm 3,1%. Lắp ráp điện tử máy tính 63 triệu USD, chiếm 0,7%.

Nhóm hàng hóa dệt may cao hơn ở mức 4,1 tỷ USD, chiếm 48% tổng phí gia công. Giầy dép thu về 2, 7 tỷ USD, chiếm 32% tổng phí gia công.

Việt Nam chủ yếu thu được phí gia công

Số liệu cho thấy, với nhóm hàng điện thoại và điện tử máy tính, gần như doanh nghiệp Việt Nam chỉ thu được phí gia công, lắp ráp do nước ngoài mà không cung cấp nguyên liệu phụ trợ sản xuất trong nước cho hoạt động gia công đối vởi 2 nhóm hàng này.

Ở nhóm hàng dệt may, da giầy, tỷ lệ này thấp hơn. Điều đó cho thấy ngoài nguyên liệu nhập khẩu từ nước thuê gia công, doanh nghiệp Việt Nam có cung cấp thêm nguyên liệu đầu vào sản xuất trong nước phục vụ cho quá trình gia công. Như vậy, ngoài thu phí gia công, doanh nghiệp Việt còn thu được khoản ngoại tệ từ việc cung cấp nguyên liệu đầu vào, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa.

Tuy nhiên, theo Tổng cục Thống kê, hầu hết sản phẩm sau khi gia công, lắp ráp được xuất khẩu trở lại cho nước đặt gia công hoặc xuất khẩu cho nước khác theo chỉ định của nước đặt gia công. Trị giá hàng hóa sau gia công, lắp ráp bán tại Việt Nam so với tổng giá trị hàng hóa sau gia công thấp với 3,9%.

Hai ngành lớn là điện thoại và dệt may, tỷ lệ để lại tiêu thụ tại Việt Nam tương ứng chỉ chiếm 0,2% và 1%.

Trong năm 2016 cả nước có 1.740 doanh nghiệp có hoạt động gia công hàng hóa với nước ngoài. Trong đó, 1.687 doanh nghiệp nhận gia công hàng hóa cho nước ngoài. Trong khi đó, chỉ có 52 doanh nghiệp Việt Nam gửi nguyên liệu ra nước ngoài thuê gia công.