Xây dựng chiến lược tiêu chuẩn hóa quốc gia
Hiện nay việc xây dựng tiêu chuẩn từ các yêu cầu của thị trường vẫn còn nhiều bất cập đòi hỏi phải có nhiều giải pháp khắc phục cụ thể.
Thời gian qua, Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách và cơ chế tăng cường việc xây dựng tiêu chuẩn, đưa tiêu chuẩn trở thành công cụ hữu hiệu để phát triển bền vững kinh tế – xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Tuy nhiên, hoạt động tiêu chuẩn hóa vẫn chưa là động lực quan trọng, có vai trò dẫn dắt và thúc đẩy thị trường… Mặc dù hơn 60 năm hình thành và phát triển, hoạt động tiêu chuẩn hóa của Việt Nam đã có những thay đổi phù hợp với đặc điểm từng giai đoạn của nền kinh tế – xã hội nhưng vẫn còn một số tồn tại nhất định.
Cụ thể, việc xây dựng tiêu chuẩn từ các yêu cầu của thị trường chưa được chú trọng, chưa có chính sách phát triển tiêu chuẩn cho các sản phẩm quốc gia, sản phẩm chủ lực và sản phẩm trọng điểm…, chưa có cơ chế khuyến khích, đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn, thu hút và khai thác hiệu quả nguồn lực xã hội, đặc biệt từ phía doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, hiện chưa có cơ sở dữ liệu đầy đủ về tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn nước ngoài… khiến việc tra cứu, áp dụng tiêu chuẩn đối với các đối tượng có nhu cầu như doanh nghiệp, người dân gặp khó khăn.
Các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế, khu vực, quốc gia đều xác định Ban kỹ thuật là trung tâm của hoạt động xây dựng tiêu chuẩn. Ban này là tổ chức kỹ thuật quy tụ các chuyên gia hàng đầu trong từng lĩnh vực tiêu chuẩn cụ thể. Tuy nhiên, đến nay, đội ngũ công tác trong lĩnh vực tiêu chuẩn tại các bộ, ngành và địa phương trong một số lĩnh vực còn yếu, chưa được đào tạo chuyên sâu, trang thiết bị, cơ sở vật chất chưa đáp ứng đầy đủ để thực hiện các hoạt động về tiêu chuẩn hóa.
Hiện cũng còn thiếu các chính sách thiết thực trong việc tập trung đầu tư phát triển nhân lực tiêu chuẩn hóa đạt trình độ quốc tế; áp dụng cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt để đào tạo, thu hút, sử dụng có hiệu quả nhân lực về tiêu chuẩn trong nước và ngoài nước, chính sách đào tạo về tiêu chuẩn ngay trong trường đại học như kinh nghiệm của các quốc gia phát triển, các nước trong khu vực.
Để giải quyết vấn đề trên, theo kinh nghiệm quốc tế, các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế như Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO), Ủy ban Kỹ thuật Điện Quốc tế (IEC), Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), Ủy ban Tiêu chuẩn châu Âu CEN/CENELIC hoặc các quốc gia như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Indonesia… thì việc ban hành chiến lược tiêu chuẩn hóa sẽ xác định rõ các nguyên tắc, định hướng cơ bản, thiết lập chương trình hành động tổng thể, phát triển hệ thống tiêu chuẩn trung và dài hạn trên phạm vi toàn cầu hoặc quốc gia.
Trong Chiến lược tiêu chuẩn hóa quốc tế đến năm 2030, ISO cũng khẳng định “việc hoạch định chiến lược phát triển cho 10 năm tới là dấu mốc quan trọng đối với sự phát triển các tiêu chuẩn quốc tế trên cơ sở đồng thuận, lấy người dùng làm trung tâm, dẫn dắt thị trường để hỗ trợ vượt qua những thách thức toàn cầu mà các thành viên ISO đang phải đối mặt.
Công nghệ đột phá, mối đe dọa của chủ nghĩa bảo hộ, yêu cầu quản trị tốt hơn và biến đổi khí hậu là một số động lực bên ngoài định hình nền kinh tế thế giới trong những năm tới và điều đó phải được giải quyết trong chiến lược của ISO sau năm 2020. Các nước thành viên ISO cũng cần dự đoán nhu cầu, thách thức của thị trường và phân tích tiêu chuẩn nào có thể có tác động đến thương mại trong tương lai.
Từ kinh nghiệm trên, dự thảo Chiến lược tiêu chuẩn hóa quốc gia đến năm 2030 của Việt Nam cũng xác định các mục tiêu cần phải thực hiện trong thời gian tới đối với hoạt động tiêu chuẩn hóa. Theo đó, cần đưa tiêu chuẩn hóa trở thành một biện pháp kỹ thuật, là công cụ đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội, thông qua việc tăng cường năng lực quản lý của các bộ ngành, địa phương.
Đồng thời, hỗ trợ các sản phẩm của Việt Nam đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và quốc tế gắn với các mục tiêu phát triển bền vững trên cơ sở thực hành có trách nhiệm của tổ chức, doanh nghiệp thuộc các loại hình kinh tế khác nhau (bao gồm các tiêu chuẩn thực hành về trách nhiệm xã hội tích hợp với các yêu cầu về trách nhiệm xã hội trong các tiêu chuẩn đặc thù).
Bên cạnh đó, tập trung nguồn lực để thúc đẩy nghiên cứu và phát triển tiêu chuẩn quốc gia gắn với hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Thúc đẩy xã hội hóa trong hoạt động xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn. Phát triển và chuẩn hóa nguồn nhân lực về tiêu chuẩn hóa nhằm nâng cao năng lực xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn đối với các cơ quan quản lý nhà nước, viện nghiên cứu, cơ sở giáo dục, tổ chức, doanh nghiệp và người dân. Nâng cao hiệu quả hoạt động của ban kỹ thuật TCVN, ban biên soạn. Hoàn thiện cơ chế chính sách thu hút đào tạo nhân lực trong hoạt động tiêu chuẩn hóa.
Đồng thời, cần tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam tại các tổ chức, diễn đàn tiêu chuẩn hóa khu vực và quốc tế, tạo điều kiện nâng cao chất lượng và uy tín cũng như sức cạnh tranh của các sản phẩm quốc gia, sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng, triển khai đầy đủ, đồng bộ các cam kết quốc tế về tiêu chuẩn hóa và minh bạch hóa.