Ảnh hưởng của mô hình quản trị đến kế toán quản trị chi phí
Kế toán quản trị chi phí là một bộ phận kế toán quản trị, đóng vai trò quan trọng giúp doanh nghiệp sử dụng hiệu quả các nguồn lực kinh tế, tăng khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, để cung cấp thông tin hữu ích thì hệ thống kế toán quản trị chi phí phải phù hợp với đặc điểm các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Bài viết này dựa trên nền tảng của lý thuyết hệ thống chỉ ra nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hệ thống thông tin kế toán quản trị nói chung và kế toán quản trị chi phí nói riêng đó là nhân tố mô hình quản trị. Đây được coi là nhân tố đầu ra của hệ thống kế toán quản trị. Việc hiểu rõ mối quan hệ của nhân tố này với các nhân tố đầu vào là cơ sở để đưa ra các giải pháp hoàn thiện hệ thống kế toán quản trị chi phí ở các doanh nghiệp.
Kế toán quản trị, kế toán quản trị chi phí
Kế toán là công cụ của nhà quản trị. Các nhà quản trị theo đuổi các mô hình quản trị khác nhau sẽ ảnh hưởng đến các mô hình quản trị chi phí khác nhau mà họ sẽ áp dụng. Các mô hình quản trị thực chất là những tư tưởng, triết lý kinh doanh và các cách thức, phương pháp mà các nhà quản trị sử dụng để lập kế hoạch, điều hành, kiểm soát, đánh giá các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp (DN).
Mô hình quản trị được thể hiện thông qua đặc điểm cơ cấu tổ chức quản trị - mô hình tổ chức bộ máy quản trị và các phương pháp quản trị - các chính sách, quy trình quản trị, công cụ hỗ trợ để điều hành quản trị. Do đó, mô hình sẽ chi phối cách quản trị các nguồn lực, cách tổ chức các trung tâm trách nhiệm, cách tổ chức quy trình hoạt động, cách ghi nhận đánh giá kết quả, mục tiêu đạt được, cách kiểm soát các chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động tại các bộ phận, từ đó ảnh hưởng đến các nội dung của kế toán quản trị chi phí, đặc biệt là ảnh hưởng đến mô hình quản trị chi phí mà các DN đó theo đuổi.
Các nhân tố ảnh hưởng của mô hình quản trị đến kế toán quản trị chi phí
Ảnh hưởng của cơ cấu tổ chức quản trị đến kế toán quản trị chi phí
Cơ cấu tổ chức là nền tảng về mặt tổ chức của DN. Là tổng hợp các bộ phận được chuyên môn hóa có những trách nhiệm và quyền hạn nhất định, mối liên hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau được bố trí theo từng cấp nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng quản trị và thực hiện mục tiêu chung của DN. Cơ cấu tổ chức được thiết kế thành các bộ phận quản trị và các cấp quản trị. Bộ phận quản trị là một đơn vị riêng biệt có những chức năng quản lý nhất định chẳng hạn phòng kiểm tra kỹ thuật, phòng kế hoạch, phòng marketing… cấp quản trị là sự thống nhất tất cả các bộ phận quản trị ở một trình độ nhất định như cấp DN, cấp phòng ban, phân xưởng... Có nhiều dạng mô hình cơ cấu tổ chức quản trị khác nhau mà DN phải có sự lựa chọn căn cứ vào các nhân tố ảnh hưởng như: Chiến lược kinh doanh, mô hình kinh doanh (MHKD); Quy mô và mức độ phức tạp của tổ chức; Công nghệ; Ảnh hưởng của môi trường bên ngoài; Thái độ của lãnh đạo cấp cao, của nhân viên; Địa bàn hoạt động. Các mô hình cơ cấu tổ chức như sau:
- Mô hình cơ cấu tổ chức kiểu trực tuyến – chức năng: Theo mô hình này người thủ trưởng được sự giúp sức của các phòng chức năng, các chuyên gia, các hội đồng tư vấn trong việc suy nghĩ, nghiên cứu, bàn bạc tìm giải pháp tối ưu cho những vấn đề phức tạp. Tuy nhiên quyền quyết định những vấn đề ấy vẫn thuộc về thủ trưởng.
- Mô hình cơ cấu tổ chức theo sản phẩm: Là tổ chức bộ máy quản trị và biên chế nhân viên theo các nhóm, ngành sản phẩm: Giúp cho việc phân bổ nguồn lực cho các bộ phận dễ dàng hơn, chuyên môn hóa cao để nâng cao năng suất lao động, tăng Doanh thu và Lợi nhuận. Đề cao trách nhiệm trong việc sản xuất kinh doanh từng loại sản phẩm.
- Mô hình cơ cấu tổ chức theo điạ bàn kinh doanh: Một công ty có thể phân chia hoạt động sxkd của mình và thành lập các cơ sở sản xuất ở nhiều vùng địa lý khác nhau của đất nước. Điều này giúp cho công ty đáp ứng nhu cầu của khách hàng theo từng vùng và giảm được chi phí vận chuyển. Do đó sẽ áp dụng cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị theo khu vực địa lý, lúc này các vùng địa lý là cơ sở nền tảng cho việc chia nhóm các hoạt động sxkd như chi nhánh miền Tây, miền Trung, miền Bắc, chi nhánh nước ngoài.
- Mô hình cơ cấu tổ chức theo đối tượng khách hàng: Ví dụ, các ngân hàng có giám đốc khách hàng khối DN, khối cá nhân, khách hàng thường, khách hàng VIP. Tạo ra sự hiểu biết khách hàng tốt hơn, hiệu quả công việc cao.
- Mô hình cơ cấu tổ chức theo đơn vị kinh doanh chiến lược: DN được tổ chức theo các cung đoạn thị trường- sản phẩm như dưới tổng giám đốc có giám đốc DN A, DN B, mô hình này phù hợp với cty lớn có các hoạt động đa dạng ở mức độ nào đó.
- Mô hình cơ cấu tổ chức đa bộ phận: Trong mô hình này các công việc hàng ngày của đơn vị cơ sở thuộc trách nhiệm của các nhà quản trị cơ sở, Tuy nhiên các cán bộ quản lý ở trung tâm bao gồm Ban Giám đốc có trách nhiệm xem xét các kế hoạch dài hạn và hướng dẫn phối hợp giữa các đơn vị cơ sở.
- Mô hình cơ cấu tổ chức kiểu hỗn hợp: Phần lớn các DN đều cần có một mô hình cơ cấu tổ chức hỗn hợp kết hợp 2 hay nhiều mô hình ở trên, nó cho phép tận dụng được ưu thế của từng mô hình, cho phép xử lý các tình huống phức tạp và mang tính chuyên nghiệp nên thích hợp với các hãng lớn.
- Mô hình cơ cấu tổ chức kiểu ma trận: Mô hình này là sự kết hợp của hai hoặc nhiều mô hình tổ chức khác nhau. Trong thiết kế mô hình này các hoạt động trên trục dọc được nhóm theo chức năng để các nhiệm vụ có liên quan vào một chức năng như sản xuất, nghiên cứu, triển khai công nghệ… Trong chức năng theo mô hình phân cấp dọc dựa trên cơ sở phân cấp theo sản phẩm hoặc dự án. Trong mô hình ma trận có 2 thủ trưởng một thủ trưởng theo chức năng, một thủ trưởng dự án có trách nhiệm quản lý riêng biệt dự án đó. Mô hình này thích hợp với các công ty triển khai nhiều sản phẩm mới trong những điều kiện môi trường cạnh tranh không ổn định và tốc độ sản phảm tăng đáng kể có chiến lược công ty đảm bảo như ngành điện tử.
Việc nghiên cứu mô hình cơ cấu tổ chức của một DN là rất quan trọng bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi các Chiến lược kinh doanh (CLKD) của DN đó. CLKD là nghệ thuật phối hợp các hoạt động và điều khiển chúng nhằm đạt tới mục tiêu dài hạn của DN. Bản chất của CLKD là phác thảo hình ảnh tương lai của DN trong lĩnh vực hoạt động. CLKD có thể là chiến lược mở rộng địa lý, đa dạng hóa sản phẩm, sáp nhập, phát triển sản phẩm, xâm nhập thị trường, cắt giảm hoặc từ bỏ, thôn tính hoặc liên doanh. CLKD gồm: Xác lập mục tiêu dài hạn cho DN; Đưa ra các chương trình hành động tổng quát; Lựa chọn các phương án hành động, triển khai phân bổ nguồn lực để thực hiên mục tiêu đó.
Như vậy, thực chất của việc thực hiện các Chiến lược kinh doanh là cách mà DN tạo ra sự sắp xếp bố trí và cơ chế hoat động của tổ chức cho phép DN có thể theo đuổi chiến lược của mình một cách hiệu quả nhất. Thiết kế cơ cấu tổ chức một mặt là thiết kế cơ cấu tổ chức nhưng đồng thời cũng là thiết kế hệ thống kiểm tra để đảm bảo công ty thực hiện các chiến lược kinh doanh hiệu quả nhất. Để thực hiện chiến lược kinh doanh thì DN cần phải xác định một cơ cấu tổ chức phù hợp đảm bảo thuận lợi cho việc phối hợp các hoạt động của nhiều chức năng trong toàn DN nhằm thực hiện mục tiêu chung. Những điều chỉnh trong chiến lược kinh doanh thường đòi hỏi có những thay đổi trong cách thức cơ cấu của công ty. Vì cơ cấu tổ chức phần lớn ràng buộc cách thức các mục tiêu và chính sách sẽ được thiết lập ví dụ nếu mục tiêu, chính sách kinh doanh hướng tới nhóm sản phẩm thì tổ chức có mô hình quản trị dựa trên nhóm sản phẩm. Mặt khác cơ cấu tổ chức ràng buộc cách thức và nguồn lực được phân bổ trong quá trình thực hiện. Nếu một công ty có cơ cấu dựa trên nhóm khách hàng thì các nguồn lực sẽ được phân phối theo cách đó. Khi nghiên cứu về quản trị chiến lược, Alfred Chandler kết luận những thay đổi trong chiến lược kinh doanh sẽ đưa đến những thay đổi trong cơ cấu tổ chức, cơ cấu phải đi theo chiến lược. Tuy nhiên không có một kiểu thiết kế hay cơ cấu tổ chức tốt nhất cho một chiến lược cụ thể hay cho một loại công ty.
Việc ảnh hưởng của mô hình cơ cấu tổ chức đến chiến lược kinh doanh đã được khẳng định. Bên cạnh đó, chiến lược kinh doanh có ảnh hưởng đến kế toán quản trị chi phí.
CLKD có quan hệ chi phối đến hệ thống thông tin KTQT nói chung và kế toán quản trị chi phí nói riêng. Bởi lẽ CLKD là nghệ thuật phối hợp các hoạt động và điều khiển chúng để đạt tới mục tiêu dài hạn của DN. Mọi hoạt động, chính sách trong DN trong đó có hoạt động và chính sách kế toán đều phải dựa trên và phù hợp với CLKD để thực hiện các mục tiêu của DN một cách có hiệu quả. kế toán quản trị chi phí phải dựa trên CLKD để thiết lập những mục tiêu, dự toán cụ thể về nguồn lực, chi phí, lợi nhuận gắn với từng loại chiến lược cụ thể đặc biệt là chiến lược cấp chức năng – chiến lược bộ phận là chiến lược hướng vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các bộ phận chức năng trong DN như chiến lược marketing, chiến lược tài chính, chiến lược sản xuất, hậu cần và nhân lực. Mỗi khi CLKD bị thay đổi điều chỉnh thì các hoạt động mới phát sinh nên các chi phí đi theo các hoạt động cũng có sự thay đổi về cơ cấu chi phí và phương pháp xác định. Ngược lại, kế toán quản trị chi phí sẽ cung cấp các thông tin chi phí cho nhà quản trị các cấp: cấp cao, cấp trung và cấp cơ sở để thực hiện tất cả các bước của CLKD. Trong khâu xây dựng CLKD kế toán quản trị chi phí cung cấp thông tin về chi phí giúp cho các nhà quản trị xây dựng, đánh giá và lựa chọn các phương án hành động tối ưu, đưa ra phương hướng phân bổ nguồn lực để thực hiện các mục tiêu trong các CLKD đã đưa ra. Trong khâu thực thi các CLKD thì chính sách về tài chính, KTQTCP có tác động rất lớn đến hiệu quả và tiến trình thực hiện chiến lược như chính sách vốn, dự toán ngân sách tài chính, chính sách và dự toán thu mua, sản xuất, phân phối và chia lãi…
Như vậy, từ việc phân tích chiến lược kinh doanh cho thấy, mô hình cơ cấu tổ chức của DN cũng sẽ ảnh hưởng đến KTQTCP. Ngoài ra, mô hình cơ cấu tổ chức của DN cũng ảnh hưởng đến mô hình kế toán quản trị chi phí từ đó cũng ảnh hưởng đến các nội dung của KTQTCP. Thông thường mô hình cơ cấu tổ chức kiểu trực tuyến – chức năng thì phương pháp quản trị kiểu hành chính (quản trị theo thời gian) do đó mô hình kế toán quản trị chi phí kiểu truyền thống (tính giá thành và xác định kết quả kinh doanh đầy đủ) còn các mô hình cơ cấu tổ chức khác như theo sản phẩm, khu vực địa lý thì có thể áp dụng mô hình kế toán quản trị chi phí hiện đại ABC, chi phí mục tiêu, kaizen (tính giá thành và xác định kết quả kinh doanh bộ phận)
Ảnh hưởng của phương pháp quản trị đến kế toán quản trị chi phí
Theo lịch sử phát triển của quản trị, các trường phái quản trị gồm: Trường phái quản trị cổ điển với nhiều học thuyết như thuyết quản trị khoa học của Frederich Winslow Taylor, thuyết quản trị hành chính của Henrry Fayor, thuyết tâm lý xã hội trong quản trị của Mary Parker Follet và Abraham Maslow. Trường phái hiện đại về quản trị bao gồm nhiều hoc thuyết về quản trị như thuyết quản trị theo mục tiêu (MBO) quản trị theo quá trình (MBP- ERP) quản trị theo kết quả (RBM- PMS_ KPI); Lý thuyết về sự hạn chế (TOC); Lý thuyết 6 sigma DMAIC; lý thuyết Quản trị theo chuỗi giá trị, quản tri hiệu quả kinh doanh. Trường phái lý thuyết quản trị về rủi ro, quản trị sự thay đổi, quản trị tri thức trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế.
Mỗi phương pháp quản trị có đặc điểm riêng, có ưu điểm và hạn chế riêng cũng như điều kiện để thực hiện nó. Ví dụ:
- Phương pháp quản trị theo thời gian (quản tri kiểu hành chính- chức năng) có đặc điểm: quản lý DN theo chiều dọc mang nặng tính chỉ huy và điều khiển. Đo lường kết quả hoạt động là kết quả tổng thể theo chức năng của cả đơn vị. Chi phí, doanh thu, kết quả phân loại theo chức năng hoạt động và gắn với thời gian thực hiện. Mô hình này không thích ứng được với những biến động của môi trường nhiều nhưng đánh giá trách nhiệm của nhà quản trị cấp cao.
- Phương pháp quản trị theo mục tiêu có đặc điểm: Quản lý DN theo chiều ngang mang tính kết nối và cộng tác. Đo lường kết quả hoạt động là kết quả bộ phận, chi phí Doanh thu, gắn với kết quả công việc. Nhà quản lý sử dụng thường là quản lý cấp cao và cấp trung. Áp dụng cho công việc khó kiểm soát hoặc đo lường theo quy trình.
- Phương pháp quản trị theo quá trình có đặc điểm kiểm soát được công việc chi tiết liên tục theo dòng chảy công việc thông qua việc xây dựng lưu đồ quy trình, xác định các điểm kiểm soát; Tăng cường được tính hiệu năng của công việc. Phát hiện và khắc phục nhanh chóng những sai hỏng để có biện pháp cải thiện tức thời; Trưởng các bộ phận không chỉ chịu trách nhiệm về công việc của mình mà còn của các bộ phận phía sau; Tạo điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin vì các hoạt động đều đã có quy trình. Các quy trình được thiết lập có hệ thống và thống nhất. Kiểm soát kết quả được liên tục theo bộ phận. Nhà quản lý sử dụng thường là quản lý cấp trung và cấp cơ sở. Áp dụng cho công việc khó kiểm soát mục tiêu
Các DN không chỉ áp dụng một phương pháp quản trị mà có thể áp dụng kết hợp các phương pháp quản trị nhằm gia tăng hiệu quả hoạt động. Các nhà quản trị cần cân nhắc, lựa chọn phương pháp quản trị phù hợp với điều kiện của DN và môi trường kinh doanh cũng như biết cách phối hợp các phương pháp trong từng giai đoạn, từng công việc, từng hoạt động, từng bộ phận, từng cấp quản trị để nâng cao hiệu quả hoạt động. Ví dụ, kết hợp phương pháp quản trị theo mục tiêu với phương pháp quản trị theo quá trình thì hoạt động đó luôn đạt được mục tiêu với hiệu quả cao nhất… hay nhà quản trị cấp cao và trung thì áp dụng phương pháp quản trị theo mục tiêu, nhà quản trị cấp trung và cấp cơ sở thì quản trị theo quá trình. Đối với những công việc khó kiểm soát mục tiêu thì kiểm soát theo quá trình và ngược lại.
Như vậy, dù tồn tại rất nhiều học thuyết quản trị nhưng tựu trung lại các học thuyết đều nhằm tìm ra các phương thức quản trị hiệu quả hướng tới các đối tượng là các yếu tố cấu thành hoạt động của DN, cấu thành MHKD như: quản trị nhằm vào nguồn lực, quản trị tác động vào qui trình hoạt đông, quản trị hướng vào mục tiêu hay kết quả hoạt động hay quản trị tác động vào các bộ máy điều hành các hoạt động. Và như thế việc nghiên cứu phương pháp quản trị của DN có ảnh hưởng trực tiếp tới việc xác định mô hình quản trị chi phí và từ đó ảnh hưởng tới các nội dung của kế toán quản trị chi phí.
Ví dụ, các nhà quản trị theo phương pháp quản trị truyền thống cổ điển (quản trị kiểu hành chính, chức năng, chỉ huy theo chiều dọc với phương pháp quản lý theo thời gian (Management by Time – MBT, quản lý kiểu tổng thể, cứng nhắc ) thì áp dụng các mô hình quản trị chi phí với các phương pháp phân bổ và tính giá thành kiểu truyền thống. Các nhà quản trị hiện đại với các phương pháp quản trị hiện đại (hướng tới quản trị theo giá trị và kết quả - quản trị đầu ra, quản lý mang tính kết nối giữa các bộ phận DN, các cấp quản trị, cộng tác theo chiều ngang, tăng cường trách nhiệm quản lý bộ phận, quản lý linh hoạt) như phương pháp quản trị theo mục tiêu (MBO) thì hình thành mô hình quản trị chi phí và tính giá thành theo mục tiêu (TC) và phương pháp thẻ điểm cân bằng –BSC.
Nhà quản trị theo đuổi phương pháp Quản trị theo quá trình (MBP) thì hình thành mô hình quản trị chi phí và tính giá thành Kaizen, phương pháp Life Costing và hệ thống quản trị nguồn lực ERP; Phương pháp quản trị theo hoạt động (ABM) thì hình thành mô hình quản trị chi phí và phương pháp tính giá thành ABC; phương pháp Quản trị theo kết quả hình thành hệ thống thước đo kết quả công việc KPI. Đồng thời, từ cách kết hợp giữa các phương pháp quản trị thì trong kế toán cũng có sự kết hợp tương ứng giữa mô hình kế toán quản trị chi phí với nhau như kết hợp mô hình quản trị chi phí mục tiêu (TC) kết hợp với mô hình kế toán quản trị chi phí kaizen.
Vì vậy, để hiểu được mô hình quản trị chi phí cũng như các nội dung của kế toán quản trị chi phí cần nắm được các mô hình quản trị của nhà quản trị. Mô hình quản trị quyết định yêu cầu thông tin đầu ra cũng như phương pháp xử lý, kiểm soát mà nhà quản trị cần ở các hệ thống thông tin con trong đó có hệ thống thông tin kế toán. Vì vậy, nghiên cứu mô hình quản trị của DN để nắm được nhận thức, quan điểm, yêu cầu quản trị và phương pháp quản trị của nhà quản trị là nhân tố quyết định việc tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị nói chung và kế toán quản trị chi phí nói riêng.
Một điều cần lưu ý là giữa mô hình quản trị và MHKD có mối quan hệ biện chứng với nhau và cùng quan hệ mật thiết với hệ thống thông tin kế toán quản trị nói chung và kế toán quản trị chi phí nói riêng.
MHKD là một cấu trúc tổng thể bao gồm các nhân tố, mối quan hệ và quy trình có liên hệ mật thiết với nhau, có tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau mà qua đó doanh nghiệp (DN) có thể tạo ra và chuyển giao các giá trị cho khách hàng mục tiêu. MHKD chính là kế hoạch mà một công ty sử dụng để tạo ra doanh thu và lợi nhuận hoặc là một hướng đi cụ thể để một tổ chức kinh doanh đảm bảo việc tạo ra thu nhập, bao gồm việc chọn lựa cơ cấu tổ chức sản xuất, phương thức bán hàng, các chiến lược, cơ sở hạ tầng, cấu trúc của tổ chức, quy trình hoạt động và các chính sách.
Cấu trúc của MHKD gồm 4 khu vực: Khu vực cơ sở hạ tầng; Khu vực sản phẩm dịch vụ; Khu vực khách hàng; Khu vực tài chính.
Mô hình quản trị của DN phải được thiết lập để phù hợp với MHKD. Đặc điểm MHKD là căn cứ để thiết lập lĩnh vực quản trị, cơ cấu tổ chức quản trị và phương pháp quản trị hiệu quả. Ngược lại, chất lượng và hiệu quả của mô hình quản trị sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động của MHKD. Khi MHKD, thay đổi thì cách thức vận hành mô hình quản trị cũng thay đổi theo.
Có thể khẳng định mối quan hệ giữa mô hình quản trị và MHKD là mối quan hệ của chủ thể và khách thể của các hoạt động trong DN. Và hệ thống thông tin kế toán quản trị nói chung và kế toán quản trị chi phí nói riêng chính là cầu nối là trung tâm xử lý mối quan hệ này. MHKD cung cấp các dữ liệu đầu vào cho hệ thống thông tin kế toán nói chung và kế toán quản trị chi phí nói riêng. Thông qua hệ thống kế toán để xử lý và cung cấp các thông tin đầu ra đáp ứng nhu cầu thông tin cho bộ máy quản trị vận hành mô hình quản trị. Ngược lại, bộ máy quản trị thông qua mô hình quản trị đặt ra những yêu cầu để hệ thống thông tin kế toán phải thiết kế xử lý cung cấp để tác động lại vận hành MHKD, chiến lược kinh doanh cho hiệu quả, từ đó ảnh hưởng đến kế toán quản trị chi phí. Cụ thể:
MHKD có chung mục đích với kế toán quản trị chi phí đó là nhằm tạo ra giá trị và chuyển giao giá trị đó cho khách hàng. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của các hoạt động trong DN. Vì MHKD dựa trên đặc điểm của chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng trong DN nên nó chi phối đến việc lập kế hoạch kinh doanh của DN, kế hoạch huy động sử dụng nguồn lực, quy trình thực hiện các hoạt động, bố trí các trung tâm trách nhiệm, trung tâm thực hiện các hoạt động, xác định giá trị sản phẩm và các giải pháp để đạt tới mục tiêu. Vì thế MHKD sẽ ảnh hưởng đến việc thiết kế cấu trúc chi phí các hoạt động trong chuỗi giá trị, ảnh hưởng tới luồng vận động của chi phí thông qua quy trình hoạt động, ảnh hưởng đến mục tiêu, mô hình, phương pháp và chính sách quản trị chi phí của DN để giúp cho DN có thể tạo ra được doanh thu và lợi nhuận như mong muốn. Từ đó, sẽ ảnh hưởng đến các nội dung, phương pháp của kế toán quản trị chi phí cũng như cách thức tổ chức kế toán quản trị chi phí.
Một trong các yếu tố cấu thành MHKD là khu vực tài chính với cấu trúc chi phí đã nói lên ảnh hưởng của MHKD đến kế toán quản trị chi phí. Cấu trúc chi phí là những chi phí cần thiết mà DN phải chịu khi vận hành MHKD. Đây là các chi phí được tạo ra từ kết quả việc triển khai các thành phần khác nhau cấu tạo nên MHKD hay nói cách khác mỗi chi phí có thể truy ngược lại từ các thành phần khác nhau của MHKD.
DN phải tìm ra cấu trúc chi phí hợp lý, phù hợp, hiệu quả với MHKD của mình và quá trình tìm kiếm các cấu trúc chi phí đó sẽ ảnh hưởng đến việc xác định các loại chi phí phát sinh và việc xác định các mô hình quản trị chi phí phù hợp với đặc điểm các yếu tố khác cấu thành MHKD đó của DN. Mặt khác, chính dữ liệu từ MHKD sẽ cung cấp nguồn dữ liệu đầu vào cả bên trong và bên ngoài cho hệ thống thông tin kế toán quản trị nói chung và kế toán quản trị chi phí nói riêng. Đồng thời, nó còn chi phối đến cách thức xử lý, luân chuyển các dữ liệu thông tin của hệ thống kế toán quản trị chi phí.
Như vậy, từ việc nghiên cứu MHKD cho thấy, mô hình quản trị của DN cũng sẽ ảnh hưởng đến kế toán quản trị chi phí.
Kết luận
Kế toán là công cụ của nhà quản trị. Các nhà quản trị theo đuổi các mô hình quản trị khác nhau sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện các MHKD, chiến lược kinh doanh của DN từ đó ảnh hưởng đến việc lựa chọn các mô hình quản trị chi phí của DN. Mỗi mô hình quản trị chi phí lại có những đặc thù riêng về mục tiêu, về nhận diện chi phí, phương pháp tập hợp, phân bổ chi phí sản xuất, về đối tượng tính giá thành, về nội dung của các phương pháp tính giá thành về phương pháp lập dự toán, cũng như phân tích, kiểm soát chi phí, giá thành. Do vậy mỗi mô hình quản trị chi phí sẽ là trụ cột chính cấu thành và chi phối nội dung của hệ thống kế toán quản trị chi phí.
Tài liệu tham khảo:
- Ngô Kinh Thanh (2015), Giáo trình quản trị doanh nghiệp, NXB Đại học Kinh tế quốc dân;
- Charles T. Horngren, Srikant M. Datar, Madhav V. Rajan-Cost AccountingPrentice Hall (2014);
- Advanced Management Accountng, Robert Kaplan & Anthony A Atkinson, (2014);
- William Lanen, Shannon Anderson, Michael Maher-Fundamentals of Cost Accounting-McGraw-Hill Education (2013).pdf .