Chuyển đổi số tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa

Nguyễn Thị Ái Linh

Quá trình đẩy mạnh ứng dụng tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu lớn, internet vạn vật... có thể tạo bước nhảy vọt trong việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, đơn giản hóa chuỗi cung ứng và logistics, giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Vì vậy, việc chuyển đổi số ở doanh nghiệp góp phần tạo ra động lực phát triển mới, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Bài viết này nghiên cứu hoạt động chuyển đổi số tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam và đưa ra một số đề xuất nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số tại các doanh nghiệp này trong thời gian tới.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Thực trạng chuyển đổi số tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Ở Việt Nam, khái niệm “chuyển đổi số” trong các doanh nghiệp (DN) thường được hiểu theo nghĩa là quy trình thay đổi từ mô hình truyền thống sang DN số bằng cách áp dụng công nghệ mới như dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud)... để thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa DN...

Kết quả khảo sát trên 400 DN về “Thực trạng chuyển đổi số trong DN trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19” do Liên minh Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện năm 2020, cho thấy: Các DN Việt Nam bắt đầu nhận thức và ứng dụng các công nghệ số vào các khâu như: Quản trị nội bộ, sản xuất, logistics, mua hàng, marketing, bán hàng và thanh toán. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, khi đại dịch COVID-19 lan rộng dẫn tới những hạn chế tiếp xúc và thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội đã buộc DN phải ứng dụng nhiều hơn công nghệ số trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, nhất là trong quản trị nội bộ, thanh toán điện tử, marketing trực tuyến.

Trong một thời gian ngắn, nhiều DN đã đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ số trong quản lý nhân sự từ xa, hội nghị trực tuyến, học trực tuyến, quản trị nội bộ... Theo khảo sát, trong lĩnh vực quản trị nội bộ, điện toán đám mây là công cụ kỹ thuật được nhiều DN Việt Nam sử dụng, với 60,6% tăng 19,5% so với thời điểm trước đại dịch. Sau đó đến hội nghị trực tuyến, hệ thống quản lý công việc và quy trình với gần 30% DN đã sử dụng công cụ này trước khi có đại dịch COVID-19 và gần 19% DN sử dụng công nghệ này từ khi có dịch COVID-19; Có 98% DN kỳ vọng có sự thay đổi trong hoạt động sản xuất, kinh doanh khi thực hiện chuyển đổi số, trong đó lớn nhất là khả năng giúp giảm chi phí (chiếm hơn 71%), giúp DN hạn chế giấy tờ (chiếm 61,4%), nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ (chiếm 45,3%).

Theo báo cáo của Cisco năm 2020, tại Việt Nam, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đang phải đối mặt với những rào cản trong quá trình chuyển đổi số như thiếu nền tảng CNTT đủ mạnh để cho phép chuyển đổi kỹ thuật số (12%), thiếu tư duy kỹ thuật số hoặc các thách thức về văn hóa kỹ thuật số trong DN (16%), chuyển đổi số là một quá trình quá lớn DN không biết bắt đầu từ đâu (14%). Cũng theo Cisco, ưu tiên chuyển đổi số của các DNNVV tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào tăng trưởng và mở rộng thị trường (28%), cải thiện doanh số bán hàng và chiến lược tiếp thị sản phẩm (21%), giới thiệu các sản phẩm và dịch vụ mới hoặc cải thiện những sản phẩm và dịch vụ đã có (18%).

Hiện nay, ở Việt Nam, chuyển đổi số đã và đang diễn ra ở hầu hết các loại hình DN và ở nhiều mức độ khác nhau, nhất là những lĩnh vực như: Ngân hàng, bảo hiểm, thương mại điện tử, giao thông, du lịch... Cụ thể:

- Trong lĩnh vực ngân hàng và bảo hiểm: Việc chấp nhận ngân hàng số và công nghệ tài chính (fintech) trong nhận thức của người dân ngày càng tăng, đặc biệt là với những người trẻ, am hiểu về công nghệ. Một bộ phận lớn dân số Việt Nam thường xuyên mở tài khoản ngân hàng và giao dịch với ngân hàng thông qua ứng dụng trên điện thoại, điều đó dẫn tới việc ngân hàng và bảo hiểm là lĩnh vực đi đầu trong chuyển đổi số.

Công ty tư vấn về quản lý McKinsey mới đây đã thực hiện Khảo sát dịch vụ tài chính cá nhân về hành vi sử dụng ngân hàng số năm 2021 với khoảng 20.000 khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng ở thành thị tại 15 thị trường châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam. Kết quả cho thấy, tỷ lệ khách hàng Việt Nam dùng các công cụ ngân hàng số ít nhất một lần trong tháng đã tăng gấp đôi trong giai đoạn 2017-2021, từ 41% lên 82%. Tỷ lệ sử dụng công nghệ tài chính và ví điện tử tăng từ 16% năm 2017 lên 56% năm 2021.

Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ dân số Việt Nam có tài khoản ngân hàng chính thức chỉ 59%, trong khi phần còn lại không tiếp cận với dịch vụ ngân hàng. Theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới, số lượng giao dịch không dùng tiền mặt ở Việt Nam là 4,9 bình quân đầu người so với 59,7 ở Thái Lan, 89 ở Malaysia và 26,1 ở Trung Quốc. Điều này tạo ra cơ hội thuận lợi cho các ngân hàng triển khai fintech.

- Trong lĩnh vực thương mại điện tử: Thương mại điện tử là một trong những ngành phát triển nhanh nhất của nền kinh tế số Việt Nam. Thương mại điện tử là xu hướng kinh doanh và tiêu dùng tất yếu gắn liền với sự phát triển của công nghệ và phát triển dịch vụ của các DN nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.

Theo báo cáo Thương mại điện tử Đông Nam Á 2021 của Google, Temasek và Bain & Company, thương mại điện tử Việt Nam năm 2021 đạt 21 tỷ USD, tăng 31% so với năm trước. Sự gia tăng này về cơ bản là nhờ vào sức tăng trưởng 53% của ngành thương mại điện tử cho dù thị trường du lịch trực tuyến bị thu hẹp do các quy định hạn chế di chuyển. Dự kiến vào năm 2025, toàn bộ nền kinh tế Internet sẽ đạt giá trị 57 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng kép hằng năm (CAGR) đạt 29%. Trong đó, lĩnh vực bán lẻ hàng hóa trực tuyến tăng 46%; gọi xe và đồ ăn công nghệ tăng 34%; tiếp thị, giải trí và trò chơi trực tuyến tăng 18%; riêng lĩnh vực du lịch trực tuyến giảm 28%.

- Trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất và nông nghiệp: Theo báo cáo khảo sát của CSIRO năm 2019 ngoại trừ các hộ nông dân, đa phần các DN được khảo sát trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất và nông nghiệp đã ứng dụng CNTT vào quá trình sản xuất... Cũng theo kết quả khảo sát có khoảng 35% DN nông nghiệp chính thức và khoảng ¼ DN chế biến chế tạo có kế hoạch đầu tư vào công nghệ số trong những năm tới so với tỷ lệ 15% của hộ gia đình.

- Trong các lĩnh vực khác: Lĩnh vực vận tải - logistics đã và đang phát triển nhanh chóng cùng với sự bùng nổ của thương mại điện tử. Các DN trong ngành vận tải đã chuyển đổi từ giao nhận truyền thống sang giao nhận phục vụ thương mại điện tử để tăng tính cạnh tranh và thích nghi với thị trường.

Theo số liệu từ Hiệp hội DN vận tải Việt Nam, số lượng công ty ứng dụng công nghệ số trong hoạt động tăng từ 15% - 20% lên 40% -50% trong những năm gần đây. Tuy nhiên, hơn 50% DN trong số này áp dụng công nghệ chưa đồng bộ. Trong lĩnh vực y tế, nhiều bệnh viện ở Việt Nam đã bắt đầu sử dụng các công nghệ cao để phát triển hệ thống y tế thông minh, hiện tại đang tập trung vào 3 hướng chính: Phòng bệnh thông minh; Khám chữa bệnh thông minh và Quản lý thông minh. Các bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh cũng chia sẻ được dữ liệu mở, dễ dàng liên thông, kết nối và mở rộng, từ đó đưa ra được các giải pháp chăm sóc sức khỏe y tế hiện đại.

Lĩnh vực du lịch cũng là lĩnh vực tác động nhiều chuyển đổi số. Đứng trước tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, ngành Du lịch đã thay đổi nhanh chóng cùng với chất lượng dịch vụ tăng cao bằng việc sử dụng mô hình du lịch thông minh. Theo khảo sát của Tổng cục Du lịch Việt Nam, 71% khách du lịch quốc tế tới Việt Nam những năm gần đây tham khảo các nguồn trực tuyến để lựa chọn điểm đến, 64% khách du lịch quốc tế đặt chuyến du lịch đến Việt Nam thông qua kênh trực tuyến. Ở Việt Nam hiện có khoảng hơn 10 sàn giao dịch du lịch trực tuyến (như Tripi.vn, yeudulich.com, travel.com.vn, mytour.vn, dulichviet.com.vn,...) chiếm khoảng 20% các giao dịch dịch vụ, còn lại do các sàn giao dịch nước ngoài (Agoda, booking, traveloka, ...) chiếm 80%.

Một số vấn đề đặt ra trong chuyển đổi số tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa

Bên cạnh các kết quả đạt được, quá trình chuyển đổi số tại các DNNVV tại Việt Nam cũng gặp một số hạn chế gồm:

Thứ nhất, thiếu vốn và thiếu thông tin.

Đây được coi là khó khăn lớn nhất trong quá trình thúc đẩy chuyển đổi số ở DNNVV, đặc biệt là các DN trong lĩnh vực sản xuất và nông nghiệp. Việt Nam là nước đang phát triển, cơ sở hạ tầng kỹ thuật số còn đang khá thô sơ về dữ liệu, tốc độ truyền tải. Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số cần đầu tư nhiều hơn nữa vào cơ sở hạ tầng. Quá trình đầu tư này không thể triển khai ngay lập tức mà cần có thời gian và tốn kém.

Thứ hai, thiếu hụt lao động có trình độ và kỹ năng cho chuyển đổi số.

Đây được coi là khó khăn lớn đối với chuyển đổi số tại Việt Nam trong hiện tại và tương lai, chuyển đổi số đòi hỏi quy trình và công nghệ phức tạp. Để xây dựng các nền tảng và bảo trì chúng đòi hỏi nhiều chuyên gia và lao động đã qua đào tạo. Ở nước ta đang thiếu hụt những lao động này.

Theo “Báo cáo thị trường công nghệ thông tin Việt Nam năm 2020” của Topdev, có khoảng 30% sinh viên tốt nghiệp có khả năng đáp ứng yêu cầu chuyên môn của DN, còn lại 70% cần đào tạo bổ sung từ 3 tháng đến 6 tháng. Nhân lực công nghệ thông tin (IT) của Việt Nam dù được đánh giá cao, tuy nhiên vẫn chưa được khai thác đủ tầm và lực để đảm bảo số lượng và chất lượng phục vụ cho nhu cầu phát triển công nghệ trong nước và sánh ngang với các quốc gia trong khu vực. Cũng theo báo cáo Topdev, trong năm 2020, Việt Nam thiếu hụt khoảng 100.000 nhân lực CNTT. Sự thiếu hụt này đến từ nhiều nguyên nhân mà trong đó những nguyên nhân trọng tâm là: các chương trình đào tạo không đáp ứng được yêu cầu của DN; công nghệ thay đổi quá nhanh mà các trường không theo kịp để phát triển các chương trình đào tạo phù hợp; thị trường cần các chuyên gia có kỹ năng cao trong khi sinh viên mới tốt nghiệp thì thiếu kỹ năng thực hành và kỹ năng mềm (làm việc nhóm, quản lý thời gian, kỹ năng giao tiếp...); nhân lực CNTT thường thiếu kỹ năng giao tiếp và sử dụng tiếng Anh chưa thành thạo..

Thứ ba, DN thiếu nhận thức về vai trò của chuyển đổi số.

Công cuộc chuyển đổi số đòi hỏi những người đứng đầu DN phải là người sẵn sàng thay đổi, mạnh dạn từ bỏ mô hình kinh doanh truyền thống để xây dựng một mô hình kinh doanh mới, một quy trình làm việc mới. Tuy nhiên, theo báo cáo của VCCI, DNNVV hiện nay chiếm hơn 97% tổng số DN Việt Nam, nhưng có trình độ đổi mới về công nghệ thấp.

Theo khảo sát của Bộ Công Thương, có 16 trong 17 ngành nghề được khảo sát có mức độ sẵn sàng để tham gia vào chuyển đổi số thấp. Đáng chú ý, hơn 80% DN mới bắt đầu tìm hiểu về chuyển đổi số. Đa phần DN chưa xây dựng được chiến lược chuyển đổi số rõ ràng, phù hợp với chiến lược kinh doanh và các nguồn lực của DN, cũng như chưa xác định được hướng chuyển đổi công nghệ phù hợp.

Thứ tư, chuyển đổi số có thể làm tăng rủi ro liên quan tới việc làm và phân biệt đối xử.

Chuyển đổi số song hành là các quy trình được tự động hóa nhiều hơn nhưng cũng chính vì thế mà yêu cầu về nguồn nhân lực giảm xuống. Ngoài ra, chuyển đổi số cũng có thể làm tăng bất bình đẳng trong xã hội. Một báo cáo của Ngân hàng Thế giới mới đây đã chỉ ra rằng, chuyển đổi số mang lại nhiều lợi ích hơn cho người giàu nhưng những người nghèo thì lại hưởng ít lợi ích hơn từ những công nghệ này.

Tóm lại, quá trình chuyển đổi số được nhắc đến ở Việt Nam từ khá sớm, nhưng tốc độ chuyển đổi số ở Việt Nam tương đối chậm và không tương xứng với quy mô của nền kinh tế so với các nước trong khu vực ASEAN. Trong kỷ nguyên 4.0, những công nghệ nổi bật như dữ liệu lớn, Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, blockchain... sẽ giúp các DNNVV Việt Nam nâng cao năng suất lao động, tối ưu hóa quá trình sản xuất, cải thiện dịch vụ chăm sóc khách hàng, tăng tỷ suất lợi nhuận... Tuy nhiên, để thực hiện chuyển đổi số đối với các DNNVV cần phải thận trọng và đòi hỏi nhiều bên tham gia chung sức phát triển hạ tầng kỹ thuật, các kỹ năng công nghệ số, nâng cao nhận thức của DN về lợi ích của chuyển đổi số cũng như tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn và những ưu đãi về tài chính.

Tài liệu tham khảo:

  1. Bộ Thông tin và Truyền Thông, “Sách trắng công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam 2021”;
  2. P. T. V. M. Khương, “Dự báo tác động của chuyển đổi số tới kết quả sản xuất – kinh doanh của 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam,” Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, vol. 10, p. 15, 2019;
  3. Cisco, “2020 Asia Pacific SMB Digital Maturity Study”;
  4. tapchitaichinh.vn, https://www.gso.gov.vn/
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 4/2023