Cơ chế đặc thù về quản lý tài chính đối với Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam
Nghị định số 59/2021/NĐ-CP quy định một số nội dung đặc thù về cơ chế quản lý tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động đối với Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam (VNX), Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam (VSD) quy định, khi tính toán các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, ngoài các yếu tố khách quan được loại trừ theo quy định pháp luật về đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, hai đơn vị này được loại trừ thêm các yếu tố khách quan.
Chỉ được đầu tư ra ngoài doanh nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán
Theo Nghị định số 59/2021/NĐ-CP quy định một số nội dung đặc thù về cơ chế quản lý tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động đối với VNX, VSD, hai đơn vị này chỉ được đầu tư ra ngoài doanh nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Hình thức và thẩm quyền đầu tư ra ngoài doanh nghiệp của VNX, VSD thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và Điều lệ tổ chức và hoạt động của VNX, VSD.
Về doanh thu của hai đơn vị, nghị định quy định doanh thu của VNX bao gồm 3 nguồn: doanh thu từ hoạt động nghiệp vụ (bao gồm doanh thu từ hoạt động quản lý thành viên; doanh thu từ hoạt động nghiệp vụ khác theo quy định của pháp luật); doanh thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ (bao gồm doanh thu từ dịch vụ cung cấp thông tin; doanh thu từ dịch vụ hạ tầng công nghệ cho thị trường chứng khoán; doanh thu dịch vụ khác theo quy định của pháp luật); doanh thu và thu nhập từ hoạt động đầu tư vốn vào công ty con (bao gồm khoản thu lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ tại công ty con, thu khoản chênh lệch giữa vốn chủ sở hữu và vốn điều lệ của công ty con; doanh thu hoạt động tài chính và thu nhập khác theo quy định của pháp luật).
Đối với VSD, doanh thu của đơn vị này bên cạnh doanh thu từ hoạt động nghiệp vụ (như: doanh thu đến từ hoạt động quản lý thành viên; doanh thu từ hoạt động đăng ký chứng khoán; doanh thu từ hoạt động lưu ký chứng khoán; doanh thu từ hoạt động chuyển khoản chứng khoán...), doanh thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ (bao gồm doanh thu từ dịch vụ cung cấp thông tin; doanh thu dịch vụ khác theo quy định của pháp luật), Nghị định này còn quy định: ngoài doanh thu hoạt động tài chính và thu nhập khác theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, VSD được hạch toán vào doanh thu hoạt động tài chính đối với lãi tiền gửi phát sinh từ hoạt động thanh toán hộ cổ tức, gốc, lãi công cụ nợ của Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, các chứng khoán khác và thực hiện quyền mua chứng khoán.
Nghị định 59 cũng quy định, VNX và VSD sẽ quản lý doanh thu và thu nhập khác, quản lý chi phí theo quy định tại Điều 30 Nghị định số 91/2015/NĐ-CP về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung, thay thế (nếu có).
Được loại trừ thêm các yếu tố khách quan trong đánh giá doanh nghiệp
Liên quan vấn đề chi phí, Nghị định này cũng quy định, VSD được tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế đối với một số khoản chi phí đặc thù gồm: chi trích lập Quỹ phòng ngừa rủi ro nghiệp vụ theo quy định tại khoản 3 Điều 156 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung, thay thế (nếu có).
Việc trích Quỹ phòng ngừa rủi ro nghiệp vụ được thực hiện hàng quý. Trong năm tài chính nếu không sử dụng hết, số dư của Quỹ được chuyển sang năm sau để sử dụng tiếp. Cùng với đó là chi phí chuyển lại cho công ty con của VNX khoản thu từ hoạt động giao dịch chuyển quyền sở hữu chứng khoán không qua hệ thống giao dịch chứng khoán.
Về đánh giá hiệu quả hoạt động và xếp loại doanh nghiệp, VNX, VSD thực hiện theo quy định của pháp luật về đánh giá hiệu quả hoạt động và xếp loại doanh nghiệp của DNNN.
Đồng thời, khi tính toán các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, ngoài các yếu tố khách quan được loại trừ theo quy định pháp luật về đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN, VNX, VSD được loại trừ thêm các yếu tố khách quan khác như: chính sách quản lý của Nhà nước làm ảnh hưởng đến tình hình niêm yết, giao dịch chứng khoán và tình hình đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán.
Đối với VNX, yếu tố khách quan được loại trừ là doanh thu từ hoạt động nghiệp vụ, doanh thu và thu nhập từ hoạt động đầu tư vốn vào công ty con thay đổi do biến động các yếu tố như: số lượng công ty niêm yết, số lượng công ty đăng ký giao dịch; khối lượng chứng khoán giao dịch và giá giao dịch; số lượng thành viên của VNX; giá trị trái phiếu trúng thầu, kế hoạch và quy mô huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu; giá trị giao dịch trái phiếu…
Còn đối với VSD, yếu tố khách quan được loại trừ là doanh thu từ hoạt động nghiệp vụ thay đổi do biến động các yếu tố: khối lượng chứng khoán lưu ký thực hiện trong năm; giá trị chứng khoán đăng ký (lần đầu) thực hiện trong năm và số lần đăng ký chứng khoán bổ sung; giá trị thanh toán gốc, lãi công cụ nợ của Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương…
Về quy chế quản lý tài chính, quy chế giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động đối với công ty con của VNX, Nghị định quy định VNX ban hành Quy chế quản lý tài chính và Quy chế giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty con. Trong đó, Quy chế quản lý tài chính của công ty con bao gồm các nội dung cơ bản sau: vốn điều lệ, huy động vốn và đầu tư vốn ra bên ngoài; đầu tư, xây dựng, mua sắm tài sản cố định, quản lý tài sản; doanh thu của công ty con; chi phí của công ty con; phân phối lợi nhuận sau thuế và trích lập các quỹ.