Không có quy định về việc bù trừ tiền thuê đất đã nộp
Pháp luật về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước hiện hành không có quy định về việc bù trừ tiền thuê đất đã nộp nhưng được miễn vào các khoản tiền phải nộp khác.
Năm 2011, Công ty cổ phần Xây dựng Thương mại Trung Hậu ký hợp đồng thuê đất khu kinh tế Vũng Áng (nay là khu kinh tế Hà Tĩnh) để thực hiện Dự án khai thác và chế biến đá xây dựng tại mỏ đá Khe Ngọ Su, phường Kỳ Long, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Theo đó, Công ty đã tiến hành nộp tiền thuê đất theo quy định.
Ngày 2/8/2017, Cục Thuế Hà Tĩnh đã có Quyết định về việc miễn tiền thuê đất cho Công ty tại mỏ đá Khe Ngọ Su.
Ngày 26/8/2017, Công ty đã có văn bản gửi Cục Thuế Hà Tĩnh và Chi cục Thuế thị xã Kỳ Anh đề nghị bù trừ các khoản nộp ngân sách (tiền thuê đất đã nộp sang bù trừ tiền nợ cấp quyền khai thác khoáng sản) nhưng đến nay vẫn chưa nhận được thông tin cụ thể.
Qua Hệ thống tiếp nhận, trả lời kiến nghị của doanh nghiệp, Công ty cổ phần Xây dựng Thương mại Trung Hậu hỏi, Công ty có được bù trừ số tiền thuê đất đã nộp (nay được miễn) sang tiền cấp quyền khai thác khoáng sản còn nợ ngân sách Nhà nước không? Hay Công ty sẽ được ngân sách Nhà nước trả lại số tiền đã nộp?
Về vấn đề này, Bộ Tài chính có ý kiến như sau:
Chính sách miễn, giảm tiền sử dụng đất
Tại Điểm d, Khoản 3 Điều 94 Luật Đất đai năm 2003:
“Điều 94. Đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản
…3. Việc sử dụng đất cho hoạt động khoáng sản phải tuân theo các quy định sau đây:
… d) Trường hợp thăm dò, khai thác khoáng sản mà không sử dụng lớp đất mặt hoặc không ảnh hưởng đến việc sử dụng mặt đất thì không phải thuê đất”.
Tại Điều 3 Nghị định số 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước:
“Điều 3. Đối tượng không thu tiền thuê đất
1. Người được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 33 Luật Đất đai.
2. Người được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 34 Luật Đất đai.
3. Tổ chức, cá nhân sử dụng đất xây dựng kết cấu hạ tầng sử dụng chung trong khu công nghiệp theo quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
4. Tổ chức, cá nhân được phép thăm dò, khai thác khoáng sản mà không sử dụng lớp đất mặt và không làm ảnh hưởng đến việc sử dụng lớp đất mặt thì không thu tiền thuê đất đối với diện tích không sử dụng trên mặt đất.”.
Tại Khoản 5, Điều 18 Thông tư số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước:
"Điều 18. Nguyên tắc thực hiện miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước
… 5. Không áp dụng miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước đối với dự án khai thác tài nguyên khoáng sản.”.
Về việc bù trừ tiền thuê đất đã nộp
Pháp luật về thu tiền thuê đất không có quy định về việc khấu trừ tiền thuê đất, thuê mặt nước được miễn vào các khoản phải nộp ngân sách khác.
Theo quy định của pháp luật về Quản lý thuế, pháp luật về Quản lý thu ngân sách:
Tại Khoản 13 Điều 1 Luật số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý Thuế:
“13. Điều 47 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 47. Xử lý số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa
1. Người nộp thuế có số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đã nộp lớn hơn số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt phải nộp đối với từng loại thuế trong thời hạn mười năm, kể từ ngày nộp tiền vào ngân sách nhà nước thì được bù trừ số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa với số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt còn nợ, kể cả việc bù trừ giữa các loại thuế với nhau; hoặc trừ vào số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt phải nộp của lần nộp thuế tiếp theo; hoặc hoàn trả số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa khi người nộp thuế không còn nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt.
2. Trường hợp người nộp thuế yêu cầu trả lại số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa thì cơ quan quản lý thuế phải ra quyết định trả lại số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa hoặc có văn bản trả lời nêu rõ lý do không hoàn trả trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu.”.
Tại Điều 29 Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế quy định:
“Điều 29. Xử lý tiền thuế, tiền chậm nộp và tiền phạt nộp thừa.
1. Tiền thuế, tiền chậm nộp và tiền phạt được coi là nộp thừa khi:
a) Người nộp thuế có số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đã nộp lớn hơn số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt phải nộp đối với từng loại thuế trong thời hạn mười năm tính từ ngày nộp tiền vào ngân sách nhà nước; trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 111 Luật quản lý thuế;
…2. Người nộp thuế có quyền yêu cầu cơ quan quản lý thuế giải quyết số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa theo các cách sau:
a) Bù trừ số tiền thuế, tiền chậm nộp và tiền phạt nộp thừa với số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt còn nợ;
b) Trừ vào số tiền thuế phải nộp của lần nộp thuế tiếp theo, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này;
c) Hoàn trả kiêm bù trừ số tiền thuế, tiền chậm nộp và tiền phạt nộp thừa nếu người nộp thuế còn nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt của các loại thuế khác hoặc hoàn trả tiền thuế, tiền chậm nộp và tiền phạt nộp thừa khi người nộp thuế không còn nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt.”.
Theo Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 16/11/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 của Chính phủ thì:
- Tại Điều 33 đã hướng dẫn việc xử lý số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa;
- Tại Điều 59 đã hướng dẫn việc hoàn trả tiền thuế, hoàn trả tiền thuế kiêm bù trừ với khoản phải nộp ngân sách nhà nước;
- Tại Khoản 1 Điều 38 đã quy định trách nhiệm của Cơ quan thuế ủy nhiệm thu; theo đó: Cơ quan thuế chịu trách nhiệm về việc thực hiện chính sách và quản lý các loại thuế trên địa bàn. Thông báo công khai về các trường hợp người nộp thuế thông qua ủy nhiệm thu; tổ chức, cá nhân được cơ quan thuế ủy nhiệm thu; thời hạn và loại thuế được ủy nhiệm thu để người nộp thuế biết và thực hiện.
Tại Khoản 1 Điều 10 Thông tư số 328/2016/TT-BTC ngày 23/12/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn thu và quản lý các khoản thu ngân sách Nhà nước qua Kho bạc Nhà nước:
“Điều 10. Hoàn trả các khoản thu ngân sách nhà nước
1. Việc hoàn trả các khoản thu NSNN được thực hiện trong các trường hợp:
a) Thu không đúng chính sách, chế độ.
b) Cơ chế, chính sách thu có thay đổi.
c) Người nộp NSNN được miễn, giảm, hoàn thuế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
d) Các khoản hoàn trả theo quy định hiện hành của pháp luật về thuế và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
đ) Người nộp NSNN có số tiền thuế, tiền phạt và thu khác đã nộp lớn hơn số tiền thuế, tiền phạt và thu khác phải nộp đối với từng loại thuế.”.
Căn cứ các quy định nêu trên, pháp luật về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước hiện hành không có quy định về việc bù trừ tiền thuê đất đã nộp nhưng được miễn vào các khoản tiền phải nộp khác.
Trường hợp Công ty cổ phần Xây dựng Thương mại Trung Hậu (Hà Tĩnh) phát sinh số thuế nộp thừa, đề nghị Công ty liên hệ với cơ quan quản lý thuế trực tiếp để được giải quyết theo quy định của pháp luật.