Một số nội dung cơ bản về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân
Luật Thuế TNCN số 04/2007/QH12 được Quốc hội thông qua ngày 21/11/2007 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Tạp chí Tài chính giới thiệu về một số nội dung cơ bản về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân.
Đánh giá việc thực hiện Luật thuế TNCN
Qua 3 năm thực hiện, Luật thuế TNCN đã đạt được những mục tiêu đề ra khi ban hành Luật, cụ thể:
- Đã bao quát và mở rộng được đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, theo đó, số người nộp thuế đã tăng lên qua các năm, các loại thu nhập mới phát sinh trong nền kinh tế đã dần bao quát được. Cụ thể :
Về đối tượng chịu thuế: Ngoài việc kế thừa có chọn lọc các chính sách điều tiết thu nhập trước đây (thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân kinh doanh, thuế chuyển quyền sử dụng đất), Luật thuế TNCN đã bổ sung điều tiết đối với các khoản thu nhập mới phát sinh, như: thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng chứng khoán; thu nhập từ thừa kế, quà tặng là chứng khoán, phần vốn góp trong các tổ chức kinh tế, bất động sản và các tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng.
Tiền thuế thu được do bổ sung điều tiết đối với các khoản thu nhập trên như sau:
Chỉ tiêu |
Đơn vị |
Năm 2009 |
Năm 2010 |
Năm 2011 |
1. Thu từ đầu tư vốn |
Tỷ đồng |
4,8 |
642,0 |
1.300,0 |
2. Thu từ chuyển nhượng vốn, chứng khoán |
Tỷ đồng |
3,7 |
188,7 |
210,0 |
3. Thu từ thừa kế, quà tặng (trừ bất động sản) |
Tỷ đồng |
15,0 |
30,5 |
30,0 |
Tổng cộng |
Tỷ đồng |
23,7 |
861,2 |
1.540,0 |
Về số người nộp thuế: đã tăng lên qua các năm: Năm 2009 có trên 747.000 cá nhân nộp thuế từ tiền lương, tiền công; dự kiến năm 2011 có 1.300.000 cá nhân nộp thuế.
Số người nộp thuế từ thu nhập từ kinh doanh: Năm 2009 có khoảng 149.700 hộ gia đình, cá nhân kinh doanh nộp thuế TNCN; đến năm 2011 có gần 194.000 hộ gia đình, cá nhân kinh doanh nộp thuế.
Đối với chuyển nhượng, thừa kế bất động sản: Năm 2009 có gần 850.000 lượt chuyển nhượng, thừa kế; Năm 2011 có trên 1 triệu lượt.
- Đảm bảo động viên hợp lý thu nhập của dân cư, góp phần đảm bảo công bằng xã hội; thống nhất các quy định về thuế áp dụng đối với cá nhân có thu nhập, không phân biệt cá nhân người nước ngoài với người Việt Nam.
Luật thuế TNCN có quy định giảm trừ gia cảnh trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú (mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế 4 triệu đồng/tháng; cho mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng) và được áp dụng thống nhất không phân biệt người Việt Nam hay người nước ngoài.
Quy định nêu trên đã thể hiện nguyên tắc công bằng và khả năng nộp thuế của người có thu nhập, cụ thể: Người có thu nhập thấp (thấp hơn mức giảm trừ gia cảnh) thì chưa phải nộp thuế, người có thu nhập cao hơn phải nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khác nhau thì mức nộp thuế khác nhau.
Qua 3 năm thực hiện Luật thuế TNCN, kết quả quản lý thu cho thấy: tính đến hết năm 2011 đã có trên 15 triệu cá nhân được cấp mã số thuế (12,6 triệu cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công và từ thu nhập khác; 3,2 triệu cá nhân có thu nhập từ kinh doanh). Trong đó chỉ có khoảng 1,3 triệu cá nhân có thu nhập từ tiền lương tiền công (chiếm 10,2%); 194 nghìn hộ, cá nhân kinh doanh (chiếm 6%) phải nộp thuế.
Việc bao quát, mở rộng đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế như nêu trên đã góp phần đảm bảo công bằng xã hội, giảm khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
- Góp phần đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước (NSNN): Qua 3 năm thực hiện Luật, số thu thuế TNCN có sự tăng trưởng khá: số thu năm 2009 đạt 110% so với năm 2008, đạt 3,4% tổng số thu NSNN (năm 2009 Quốc hội cho miễn thuế TNCN 6 tháng đầu năm đối với cá nhân cư trú có thu nhập từ kinh doanh và từ tiền lương, tiền công, miễn thuế cả năm đối với thu nhập từ đầu tư vốn, từ chuyển nhượng vốn). Số thu 2010 bằng 183,6% so với thực hiện 2009, đạt 6,1% tổng thu nội địa (khoảng 4,7% tổng thu NSNN). Năm 2011 số thu ước bằng 141,38% so với số thu 2010, đạt khoảng 7,1% số thu nội địa (khoảng 5,5% tổng thu NSNN).
Như vậy số thu từ thuế TNCN đã tăng nhanh cả về số tuyệt đối, tỷ trọng trên tổng thu, góp phần huy động nguồn lực, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của NSNN.
- Từng bước góp phần thực hiện kiểm soát thu nhập của dân cư
Tính đến hết năm 2011, ngành thuế đã hoàn thành việc cấp mã số thuế cho 15.894.719 cá nhân (trong đó có 12.647.286 cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công và từ thu nhập khác; có 3.247.433 hộ gia đình, cá nhân có thu nhập từ kinh doanh). Thông qua cá nhân, cơ quan chi trả được cấp mã số thuế, ngành thuế nắm được số người nộp thuế, số người chưa phải nộp thuế đối với thu nhập từ tiền lương tiền công và từ thu nhập khác, số thuế thu được từ các loại thu nhập của cá nhân theo phương thức khấu trừ tại nguồn và theo phương thức kê khai, nộp thuế.
Sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật thuế
Thứ nhất, khắc phục những tồn tại, vướng mắc của Luật thuế TNCN hiện hành
Bên cạnh những kết quả đạt được, do sự biến động nhanh của nền kinh tế nên một số quy định trong Luật Thuế TNCN đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, chưa phù hợp với thực tiễn, một số quy định còn phức tạp, phát sinh thủ tục hành chính, chưa tạo thuận lợi cho người nộp thuế và khó khăn cho công tác quản lý thuế. Việc sửa đổi, bổ sung Luật thuế TNCN là cần thiết để khắc phục những hạn chế vướng mắc sau đây
- Mức giảm trừ gia cảnh không còn phù hợp. Luật thuế TNCN quy định mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng; mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng.Thực tế từ năm 2009 đến nay, do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng, suy thoái toàn cầu dẫn đến giá cả hàng hoá, dịch vụ tăng cao (chỉ số CPI năm 2009: 6,52%; năm 2010: 11,75%; 2011: 18.13%) làm ảnh hưởng đến đời sống của người nộp thuế. Vì vậy, cần thiết phải điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh quy định trong Luật đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh.
- Biểu thuế áp dụng đối thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền công, từ kinh doanh có mức thuế suất cao nhất 35% chưa đảm bảo tính cạnh tranh và chưa khuyến khích, thu hút chuyên gia, lao động giỏi có thu nhập cao vào Việt Nam làm việc.
- Một số quy định về phạm vi, đối tượng đánh thuế chưa phù hợp với thực tế, cụ thể như: Quy định về các khoản phụ cấp, trợ cấp không tính trong thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công chưa bao quát các trường hợp mới phát sinh theo quy định của pháp luật liên quan (pháp luật về lao động, về bảo hiểm xã hội,...) mới sửa đổi, bổ sung sau này; quy định về thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản chưa bao quát được các trường hợp uỷ quyền chuyển nhượng nhà, đất mà người uỷ quyền có đầy đủ các quyền về nhà, đất, trường hợp đổi nhà, đổi đất có phát sinh thu nhập nên thiếu cơ sở để thu thuế.
- Một số quy định về kê khai, quyết toán thuế quy định tại Luật thuế TNCN còn chưa phù hợp với thực tế, nhất là đối với hộ, cá nhân kinh doanh thực hiện nộp thuế khoán.
Thứ hai, đảm bảo chính sách rõ ràng, minh bạch, đơn giản, giảm thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho người nộp thuế và công tác quản lý thuế, tạo điều kiện cho việc hiện đại hoá quản lý thuế.
Quan điểm, mục tiêu, yêu cầu xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế TNCN
Để thực hiện đúng quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN lần này cần quán triệt quan điểm, mục tiêu, yêu cầu sau đây:
- Một là, kiên trì mục tiêu dài hạn theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước là: Đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập, động viên một cách hợp lý thu nhập dân cư công bằng, góp phần ổn định, nâng cao đời sống của người nộp thuế, khuyến khích mọi cá nhân ra sức lao động, sản xuất kinh doanh, gia tăng thu nhập làm giàu chính đáng.
- Hai là, chỉ sửa đổi, bổ sung những nội dung bất cập so với thực tế, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và có tính ổn định; việc sửa đổi đảo bảo không làm ảnh hưởng lớn đến số thu ngân sách nhà nước.
- Ba là, bảo đảm đơn giản, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo thuận lợi cho người nộp thuế và góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, hiện đại hoá công tác quản lý thuế.
- Bốn là, việc sửa đổi, bổ sung Luật thuế TNCN góp phần tăng tính cạnh tranh so với các nước trong khu vực, các nước có điều kiện tương đồng với nước ta, phù hợp với xu thế cải cách thuế và thông lệ quốc tế.
Nội dung sửa đổi, bổ sung: 4 vấn đề
-Về sửa đổi mức giảm trừ gia cảnh
Theo Điều 19 Luật thuế TNCN thì giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú. Giảm trừ gia cảnh gồm: giảm trừ cho bản thân người nộp thuế là 4 trđ/tháng; cho mỗi người phụ thuộc là 1,6 trđ/tháng (không hạn chế số người phụ thuộc).
Khi ban hành Luật thuế TNCN năm 2007, mức giảm trừ gia cảnh được xác định với các quan điểm là:
Về nguyên tắc mọi cá nhân có thu nhập đều có nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước. Tuy nhiên, trước mắt để phù hợp với điều kiện KT-XH, phong tục tập quán và khả năng nộp thuế của người dân, Luật thuế TNCN quy định giảm trừ một khoản thu nhập cho cá nhân trước khi tính thuế mà không áp dụng thu thuế ngay từ đồng đầu tiên.
Mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế phải cao hơn mức thu nhập trung bình của xã hội tại thời điểm Luật có hiệu lực để những người có mức thu nhập trung bình trở xuống chưa phải nộp thuế.
Tại thời điểm đó, Quốc hội chọn mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng đảm bảo cao hơn mức thu nhập trung bình xã hội và mức này sẽ được giữ ổn định trong một thời gian. Sau này cùng với sự tăng trưởng kinh tế, thu nhập của người dân sẽ tăng dần, khi đó 4 triệu đồng sẽ trở thành mức thu nhập phổ biến và nhiều người có thu nhập trung bình trong xã hội có điều kiện để đóng thuế thu nhập cá nhân cho nhà nước và những người có thu nhập thấp vẫn không phải nộp thuế.
Báo cáo số 76/BC-UBTVQH12 ngày 16/11/2007 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc tiếp thu, giải trình dự thảo Luật thuế thu nhập cá nhân có nêu: “... chọn mức giảm trừ 4 triệu đồng mà không tính theo GDP, mức tiền lương tối thiểu hay tính theo yếu tố trượt giá,... khi mức giảm trừ này thấp hơn mức thu nhập bình quân đầu người của xã hội thì xem xét, sửa đổi cho phù hợp.”
Thực tế từ năm 2009 đến nay, do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nền kinh tế - xã hội nước ta gặp nhiều khó khăn, giá cả hàng hoá, dịch vụ tăng cao làm ảnh hưởng đến đời sống người nộp thuế (chỉ số CPI năm 2009: 6,52%; năm 2010: 11,75%; 2011: 18,13%). Mặc dù thu nhập có tăng lên cùng với sự tăng trưởng kinh tế nhưng người nộp thuế vẫn gặp khó khăn, thực tiễn đang đặt ra đòi hỏi cần có sự chia sẻ của Nhà nước với người nộp thuế qua việc điều chỉnh tăng mức giảm trừ gia cảnh.
Việc nghiên cứu, đề xuất sửa đổi mức giảm trừ gia cảnh được tính toán, cân nhắc các thông tin tham khảo sau:
Tốc độ tăng trưởng GDP: Với tỷ lệ tăng trưởng GDP những năm qua (2009: 5,32%; năm 2010: 6,78%; 2011: khoảng gần 6,0%) và dự kiến bình quân 5 năm tới (2011 – 2015) vào khoảng 6,5%-7% thì mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế 4 triệu đồng/tháng tính theo tốc độ tăng trưởng GDP đến năm 2014 sẽ vào khoảng 5,85 triệu đồng/tháng.
So với biến động về chỉ số giá (CPI) trong giai đoạn từ năm 2009 – 2014 (CPI năm 2009: 6,52%; năm 2010: 11,75%; 2011: 18.13%, dự kiến các năm sau CPI ở mức dưới 2 con số) thì mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế 4 triệu đồng/tháng tính theo trượt giá đến năm 2014 khoảng 6,5 trđ/tháng.
Tham khảo thông tin tại Đề án Cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2013-2020 do Bộ Nội vụ chủ trì soạn thảo có đưa ra một số phương án về mức tiền lương tối thiểu, nhưng căn cứ vào khả năng cân đối của NSNN thì mức tiền lương tối thiểu cao nhất vào năm 2014 là khoảng 1.650.000 đồng/tháng, tuy nhiên vẫn đang thiếu nguồn.
Tham khảo kết quả điều tra xã hội học của Tổng cục Thống kê về thu nhập và mức sống dân cư: Theo kết quả cuộc điều tra xã hội học về thu nhập và mức sống hộ dân cư năm 2010 do Tổng cục Thống kê công bố tháng 6/2011 thì thu nhập bình quân đầu người năm 2010 tính chung cả nước theo giá hiện hành đạt 1.387.000đồng/người/tháng, trong đó, nhóm hộ giàu nhất đạt mức bình quân 3.411.000 đồng/tháng/người. Giả định tính toán với tốc độ tăng thu nhập bình quân mỗi năm khoảng 20% thì đến năm 2014 mức thu nhập bình quân sẽ vào khoảng 2.876.000 đồng/tháng/người, thu nhập bình quân của nhóm thu nhập cao nhất có thể đạt khoảng 7.073.000 đồng/tháng/người .
Tham khảo kết quả nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy: Hầu như không có nước nào quy định mức giảm trừ gia cảnh dựa theo một chỉ tiêu, chỉ số cố định mà thường căn cứ vào nhiều yếu tố như yêu cầu động viên vào ngân sách, chế độ an sinh xã hội, khả năng, thu nhập và mức sống dân cư để xác định mức giảm trừ hoặc đánh thuế từ đồng thu nhập đầu tiên. Do điều kiện kinh tế của các nước khác nhau nên khi nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, Tổ biên tập chọn ra một số thông số cơ bản nhất để có thể so sánh được, cụ thể như: so sánh với mức GDP bình quân đầu người, mức thu nhập bình quân xã hội (theo số lần hoặc tỷ lệ %). Đồng thời các nước đang phát triển thực hiện mức giảm trừ gia cảnh ổn định trong một thời gian và có thể xem xét sửa đổi mức giảm trừ gia cảnh khi sửa đổi Luật thuế TNCN.
Với các số liệu tính toán, phân tích theo các thông tin về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên và quán triệt quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Quốc hội khi thông qua Luật thuế TNCN năm 2007, của Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2011 - 2015 và quan điểm, mục tiêu, yêu cầu của việc sửa đổi, bổ sung Luật thuế TNCN lần này thì mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế 6 triệu đồng/tháng (78 triệu đồng/năm), mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc là 2,4 triệu đồng/tháng (28,8 triệu đồng/năm) là phù hợp, bởi vì:
Mức giảm trừ gia cảnh này đã bảo đảm phù hợp với tốc độ tăng trưởng GDP và tốc độ tăng thu nhập xã hội đến 2014 và những năm tiếp theo, không gây khó khăn cho đời sống người nộp thuế;
Mức giảm trừ gia cảnh này cũng phù hợp với biến động về chỉ số giá (CPI) đến năm 2014;
Mức giảm trừ 6 triệu đồng/tháng tương đương 1,7 lần mức GDP bình quân đầu người năm 2014 (cao nhất so với các nước trong khu vực có điều kiện tương đồng và khá hơn nước ta) . Mức này cũng cao gấp 3,6 lần mức lương tối thiểu áp dụng đối với cán bộ, công chức (dự kiến là 1.670.000 đồng/tháng) và đảm bảo cao hơn mức thu nhập trung bình của xã hội vào thời điểm năm 2014.
Với mức giảm trừ gia cảnh này bảo đảm số người nộp thuế không bị giảm nhiều, đáp ứng được yêu cầu dài hạn là mở rộng diện nộp thuế cùng với tăng trưởng kinh tế và mức tăng thu nhập dân cư.
Từ các phân tích trên, Bộ Tài chính trình Chính phủ trình Quốc hội điều chỉnh mức nâng mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế từ mức 4.000.000 đồng/tháng lên 6.000.000 đồng/tháng; nâng mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc từ 1.600.000 đồng/tháng lên 2.400.000 đồng/tháng.
Theo tính toán ước tính của Bộ Tài chính, nếu không có sự thay đổi về chính sách thì dự kiến vào năm 2014 số thu NSNN từ thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công khoảng 52.000 tỷ đồng và từ kinh doanh khoảng 4.000 tỷ đồng, số lượng người nộp thuế dự kiến sẽ có khoảng 4,86 triệu người chỉ chiếm khoảng 5,5% dân số cả nước , khoảng trên 20% tổng số cá nhân được cấp mã số thuế dự kiến năm 2014.
Nếu thực hiện điều chỉnh nâng mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế từ 4 triệu lên 6 triệu đồng/tháng, nâng mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc từ 1,6 triệu đồng/tháng lên 2,4 triệu đồng/tháng, dự kiến sẽ có khoảng 70% số người đang nộp thuế ở bậc 1 sẽ chuyển sang diện không phải nộp thuế, 70% số người đang nộp thuế ở bậc 2 sẽ chuyển sang nộp thuế ở bậc 1, tương tự như vậy, ở các bậc trên cũng sẽ có một bộ phận người nộp thuế được chuyển sang nộp thuế ở bậc thấp hơn, theo đó, dự kiến giảm thu khoảng 8.150 tỷ đồng.
-Về sửa đổi biểu thuế luỹ tiến từng phần
Điều 22 Luật thuế TNCN quy định biểu thuế luỹ tiến từng phần đối với thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền công, từ kinh doanh gồm 7 bậc, mức thuế suất thấp nhất là 5%, mức cao nhất là 35%; thu nhập tính thuế làm căn cứ áp dụng biểu thuế là thu nhập chịu thuế sau khi đã được trừ các khoản giảm trừ gia cảnh, các khoản đóng góp BHXH, BHYT, BH trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành nghề phải tham gia BH bắt buộc và các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo.
Biểu thuế luỹ tiến từng phần 7 bậc hiện hành được thiết kế trên cơ sở thống nhất nghĩa vụ thuế giữa người Việt Nam và người nước ngoài, giữa người kinh doanh và người hưởng lương , bảo đảm thuế đối với người nước ngoài không bị tăng nhiều so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao khi áp dụng Luật thuế TNCN để không tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư. Ngoài ra, bậc thuế suất cao nhất 35% và khoảng cách giữa các bậc thu nhập trong biểu thuế đã tính đến đặc điểm, tính chất, mối tương quan, tác động giữa thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp, có tham khảo thông lệ, kinh nghiệm quốc tế. Theo đó, bậc thuế suất cao nhất không quá cao so với mức thuế suất thuế TNDN (25%) để không gây tác động tới tương quan điều tiết giữa các loại thu nhập hoặc ảnh hướng tới việc lựa chọn mô hình kinh doanh, giảm thiểu tác động tiêu cực đến nỗ lực lao động, ý chí kinh doanh của các tổ chức, cá nhân.
Áp dụng biểu thuế này, theo số liệu về quản lý thuế năm 2010 cho thấy số người nộp thuế ở bậc cao chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng số thuế đóng góp lớn. Thực tế cho thấy mức thuế suất cao nhất 35% hiện nay là cao nên những người nộp thuế ở bậc 7 cho rằng không khuyến khích người có trình độ kỹ thuật cao, năng lực điều hành giỏi ra sức lao động . Mức thuế cao sẽ làm giảm tính cạnh tranh nội bộ quốc gia và quốc tế trong thu hút các nhà quản lý, nhà khoa học, nhân lực, lao động có tay nghề cao vào Việt Nam làm việc.
Theo chiến lược cải cách thuế 2011 - 2020, mức thuế suất thuế TNDN hiện hành 25%, dự kiến sẽ điều chỉnh xuống khoảng 22 – 23% vào năm 2015, sau đó giảm xuống còn khoảng 20% vào năm 2020. Để bảo đảm tính tương quan hợp lý giữa thuế TNDN và thuế TNCN, đồng thời có tính đến xu thế cải cách thuế ở các nước trong khu vực trong thời gian gần đây, cần thiết phải sửa đổi mức thuế cao 35%.
Để đảm bảo đơn giản, giảm mức điều tiết thuế ở bậc cao mà không gây xáo trộn lớn về chính sách, đảm bảo tính cạnh tranh, thu hút được chuyên gia, lao động giỏi có thu nhập cao vào Việt Nam làm việc, đồng thời đảm bảo được mối tương quan với thuế TNDN theo từng bước của lộ trình cải cách thuế, Bộ Tài chính dự kiến trình Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi biểu thuế luỹ tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền công và từ kinh doanh quy định tại khoản 1, Điều 22, Luật thuế TNCN như sau:
Bỏ bậc thuế suất cao nhất 35%, giữ nguyên các bậc thu nhập tính thuế và thuế suất như hiện hành, theo đó Biểu thuế lũy tiến từng phần còn 6 bậc, thuế suất cao nhất 30%, như sau:
Biểu thuế hiện hành
Bậc thuế |
|
Phần thu nhập tính thuế/tháng |
Thuế suất (%) |
1 |
|
Đến 5 |
5 |
2 |
|
Trên 5 đến 10 |
10 |
3 |
|
Trên 10 đến 18 |
15 |
4 |
|
Trên 18 đến 32 |
20 |
5 |
|
Trên 32 đến 52 |
25 |
6 |
|
Trên 52 đến 80 |
30 |
7 |
|
Trên 80 |
35 |
Phương án sửa đổi
Bậc thuế |
Phần thu nhập tính thuế/tháng |
Thuế suất (%) |
1 |
Đến 5 |
5 |
2 |
Trên 5 đến 10 |
10 |
3 |
Trên 10 đến 18 |
15 |
4 |
Trên 18 đến 32 |
20 |
5 |
Trên 32 đến 52 |
25 |
6 |
Trên 52 |
30 |
Theo phương án này thì các cá nhân có thu nhập tính thuế ở bậc cao (trên 80 triệu đồng/tháng) sẽ được giảm mức điều tiết so với hiện hành. Nếu đồng thời sửa đổi biểu thuế theo phương án này và điều chỉnh tăng mức giảm trừ gia cảnh thì mức điều tiết thuế ở tất cả các bậc đều giảm so với hiện hành, trong đó người nộp thuế ở bậc thu nhập cao (trên 80 triệu đồng) được giảm nhiều hơn.
Ví dụ:
- Cá nhân không có mức thu nhập tính thuế trên 80 triệu đồng/tháng, mức điều tiết trên tổng thu nhập tính thuế từ 22,7% trở lên (giảm 0,3% trên thu nhập tính thuế so với hiện hành).
- Cá nhân có thu nhập tính thuế đến 200 triệu đồng/tháng thì mức điều tiết sẽ giảm từ 30% xuống còn 27% trên thu nhập tính thuế.
Nếu thực hiện điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh lên 6 triệu đồng (cho mỗi người phụ thuộc là 2,4 triệu đ/tháng) đồng thời sửa đổi biểu thuế như nêu trên thì dự kiến sẽ giảm thu khoảng 9.250 tỷ đồng.
-Về sửa đổi, bổ sung về phạm vi, đối tượng chịu thuế
Về sửa đổi quy định về các khoản phụ cấp, trợ cấp không tính vào thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công
Điểm b khoản 2 Điều 3 Luật thuế TNCN quy định các khoản phụ cấp, trợ cấp thuộc thu nhập chịu thuế và liệt kê cụ thể các khoản phụ cấp, trợ cấp không tính vào thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công, gồm: “các khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công, phụ cấp quốc phòng, an ninh, phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với những ngành, nghề hoặc công việc ở nơi làm việc có yếu tố độc hại, nguy hiểm, phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực theo quy định của pháp luật, trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, trợ cấp do suy giảm khả năng lao động, trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm theo quy định của Bộ luật lao động, các khoản trợ cấp khác do BHXH chi trả, trợ cấp giải quyết tệ nạn xã hội”.
Việc quy định cụ thể các khoản phụ cấp, trợ cấp như nêu trên đã tạo thuận lợi trong thực hiện, tuy nhiên trong thực tế vẫn tiếp tục phát sinh các khoản phụ cấp, trợ cấp mới phát sinh theo quy định của các văn bản pháp luật về lao động, về BHXH ban hành sau này, như: trợ cấp tinh giản biên chế, tiền bồi thường tai nạn lao động, trợ cấp cán bộ về hưu trước tuổi, trợ cấp lao động dôi dư về hưu trước tuổi hoặc chấm dứt hợp đồng lao động . Các khoản trợ cấp này mang tính bù đắp những rủi ro, giải quyết khó khăn tạm thời cho người lao động nên về nguyên tắc phải được trừ khỏi thu nhập chịu thuế khi tính thuế phải nộp.
Để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật thì việc bổ sung các khoản phụ cấp, trợ cấp nêu trên là cần thiết. Mặc khác, để có cơ sở pháp lý trong thực hiện đối với các khoản phụ cấp, trợ cấp có thể sẽ phát sinh sau này do các Luật chuyên ngành khác có quy định, Bộ Tài chính đề xuất trình Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 2 Điều 3 theo hướng: bổ sung các khoản phụ cấp, trợ cấp như đã nêu trên, đồng thời bổ sung vào cuối điểm này quy định “và các khoản trợ cấp, phụ cấp không mang tính chất tiền lương, tiền công khác theo quy định của Chính phủ” để Chính phủ có thể quy định kịp thời khi có các khoản phụ cấp, trợ cấp mới phát sinh theo quy định của pháp luật khác.
Về thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản
Theo khoản 5 Điều 3 Luật thuế TNCN thì thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản bao gồm: a) Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; b) Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở; c) Thu nhập từ chuyển nhượng quyền thuê đất, quyền thuê mặt nước; d) Các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản.
Trong thực tế đã phát sinh các trường hợp như: người có bất động sản đã làm hợp đồng đổi nhà, đổi đất có phát sinh thu nhập; hợp đồng uỷ quyền (thực chất là bán) cho các sàn giao dịch bất động sản tư nhân chuyển nhượng bất động sản… Các hoạt động này thực chất là chuyển nhượng bất động sản.
Để đảm bảo bao quát hết các trường hợp chuyển nhượng bất động sản, Bộ Tài chính đề xuất trình Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 3 Luật thuế TNCN theo hướng bổ sung quy định: thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản bao gồm cả thu nhập từ đổi nhà, đổi đất (nếu có), thu nhập từ uỷ quyền chuyển nhượng nhà, đất mà người được uỷ quyền có đầy đủ các quyền về nhà đất theo quy định của pháp luật.
-Về sửa quy định về quyết toán thuế và các nội dung quy định về quản lý thuế
Theo Điều 24 Luật thuế TNCN thì cá nhân có thu nhập chịu thuế có trách nhiệm kê khai, nộp thuế vào NSNN và quyết toán thuế đối với mọi khoản thu nhập theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Theo Điều 10 Luật thuế TNCN quy định xác định thu nhập chịu thuế từ kinh doanh, cá nhân kinh doanh chưa tuân thủ đúng chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ mà không xác định được doanh thu, chi phí và thu nhập chịu thuế thì cơ quan thuế có thẩm quyền ấn định doanh thu, tỷ lệ thu nhập chịu thuế để xác định thu nhập chịu thuế phù hợp với từng ngành, nghề sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Thực tế quản lý thu cho thấy, quy định này nhằm mục tiêu kiểm soát thu nhập nhưng phát sinh thêm nhiều thủ tục mà không tăng thêm số thuế, nhiều trường hợp cá nhân có số thuế nộp thừa trong năm nhỏ không có yêu cầu về hoàn lại thuế hoặc bù trừ vào số thuế phải nộp kỳ sau nhưng vẫn phải thực hiện quyết toán thuế. Ví dụ: (i) hộ, cá nhân kinh doanh nộp thuế khoán theo quy định của Luật vẫn phải quyết toán thuế; (ii) cá nhân có thu nhập vãng lai ở nhiều nơi đã nộp thuế khấu trừ tại nguồn cuối năm quyết toán thuế theo quy định; (iii) những người làm công ăn lương nhưng có thu nhập từ kinh doanh (ví dụ cho thuê nhà, cửa hàng, đại lý xổ số, đại lý bảo hiểm, đại lý bán hàng đa cấp...) đã nộp thuế khoán, hết năm phải cộng gộp tất cả các nguồn thu nhập để tính lại thuế theo biểu thuế lũy tiến và quyết toán lại thuế tăng thêm thủ tục phức tạp, phiền hà cho người nộp thuế.
Để thuận lợi cho người nộp thuế và giảm khối lượng phải quyết toán thuế không cần thiết, Bộ Tài chính đề xuất trình Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 3 Điều 24 Luật thuế TNCN theo hướng cá nhân có thu nhập chịu thuế có trách nhiệm kê khai, khấu trừ, nộp thuế vào NSNN và quyết toán thuế theo quy định của Chính phủ. Theo đó, bỏ các cụm từ “đối với mọi khoản thu nhập” và “về quản lý thuế” tại điểm b khoản 1 Điều 24, đồng thời bổ sung cụm từ “việc quyết toán thuế đối với các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều này” vào cuối khoản 3 Điều này.
Các quy định về quyết toán thuế, thủ tục quyết toán thuế đối với hộ, cá nhân kinh doanh nộp thuế khoán sẽ được nghiên cứu sửa đổi tại Nghị định của Chính phủ.
Tóm lại, việc sửa đổi Luật thuế TNCN như đề xuất sẽ góp phần làm cho chính sách đơn giản, rõ ràng, minh bạch hơn để tạo thuận lợi cho người nộp thuế cũng như công tác quản lý thu; đồng thời giảm bớt mức điều tiết thuế đối với cá nhân để thu hút được những chuyên gia, lao động giỏi có thu nhập cao vào Việt Nam làm việc và đảm bảo tính cạnh tranh với các nước trong khu vực trong chính sách thu hút công nghệ, nhân tài để phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước.